bài thơ hay

Réussis tes devoirs et examens dès maintenant avec Quizwiz!

Phân tích hình tượng SÓNG trong bài thơ cùng tên của nữ sĩ Xuân Quỳnh

"Ôi trời xanh- xin trả cho vô tận ​ ​ Trời không xanh trong đáy mắt em xanh ​ ​Và trong em không thể còn anh ​ ​ Nếu ngày mai em không làm thơ nữa!" Với Xuân Quỳnh, chị làm thơ bằng một trái tim yêu và Xuân Quỳnh nổi lên trên thi đàn văn chương Việt Nam với đề tài thơ viết về tình yêu. Là một nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước trường kì gian khổ, Xuân Quỳnh cùng thế hệ với những nhà thơ: Trần Đăng Khoa, Phạm Tiến Duật, Nguyễn Khoa Điềm, Phan Thị Thanh Nhàn, Lâm Thị Mĩ Dạ, Thanh Thảo, Thu Bồn...Trong dàn đồng ca chung của thơ ca thời kì lửa cháy, Xuân Quỳnh đã viết rất hay về hào khí của một dân tộc: ​​​​"Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước ​​​​ Mà lòng phơi phới dậy tương lai" Thời kì này Xuân Quỳnh viết sung sức, đều tay và đã cho ra đời nhiều tập thơ và bài thơ có giá trị. Nhắc đến thơ của Xuân Quỳnh, mỗi người yêu thơ từ trong tiềm thức của mình không thể không nhắc đến: "Sân ga chiều em đi", "Hoa dọc chiến hào", "Gió lào cát trắng", "Tự hát", "Bầu trời trong quả trứng", "Tơ tắm- Chồi biếc" ... Nếu ai theo sát sự nghiệp thơ của nữ sĩ Xuân Quỳnh dễ dàng nhận thấy 1 trong những điểm mạnh trong thơ của Xuân Quỳnh đó là giọng thơ đầy âu lo, phấp phỏng trước hạnh phúc đời thường của ng con gái "Sóng" là bài thơ tiêu biểu cho giọng thơ trên đây của Xuân Quỳnh. Được viết nhân chuyến đi công tác ở Thái Bình, Xuân Quỳnh đứng trc biển Diêm Điền, sóng biển vô hạn, vô hồi khuấy động tâm hồn đang yêu của chị. "Sóng" đc xem là linh hồn của tập thơ "Hoa dọc chiến hào" xuất bản năm 1968. "Sóng" đc đưa vào CTGD trở thành 1 kiệt tác của nữ sĩ Xuân Quỳnh, là một nốt thơ tươi xanh trong dàn đồng ca chung của thơ ca thời kì lửa cháy. Thành công của Xuân Quỳnh trong bài thơ này là nhà thơ đã mượn hình tượng sóng để thể hiện tiếng lòng của ng con gái trước biển lớn tình yêu với nhiều cung bậc: "Dữ dội và dịu êm", có những giây phút "Ồn ào và lặng lẽ": "Dữ dội và dịu êm. ​​​​ Ồn ào và lặng lẽ. ​​​​ Sông không hiểu nổi mình. ​​​​ Sóng tìm ra tận bể. ​​​​ ... Làm sao được tan ra. Thành trăm con sóng nhỏ. ​​​​ Giữa biển lớn tình yêu .​​​​ Để ngàn năm còn vỗ." ​​​​​​​( Biển Diêm Điền,29/12/1967) Hình tượng "sóng" trong bài thơ đã thể hiện thật sinh động và hấp dẫn tâm trạng của người con gái đang yêu, bộc lộ vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ trong tình yêu. Thân bài: Phân tích hình tượng sóng để cảm nhận vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ trong tình yêu: a. Hình tượng "sóng" và "em": Những khổ thơ đầu tiên nhân vật trữ tình đang đối diện với sóng, cảm nhận về sóng, tìm thấy mối liên hệ giữa sóng và khát vọng tình yêu. - Hình tượng sóng ở khổ thơ đầu mang ý nghĩa tượng trưng cho tính khí và bản lĩnh của người phụ nữ. Con sóng là hiện thân của các đối cực dữ dội - dịu êm - ồn ào - lặng lẽ. Con sóng trung thực và thẳng thắn: khi sóng không hiểu nổi mình thì con sóng tìm đến biển, đến chân trời thoáng rộng, tự do. - Con sóng cũng tượng trưng cho khát vọng tình yêu nuôn đời của tuổi trẻ. Con sóng ngàn đời nay vẫn thế, cứ đập vỗ vô hồi vô hạn. Tình yêu cũng vậy, luôn đồng nghĩa với tuổi trẻ. Tất cả chúng tồn tại vĩnh hằng trên mặt đất này. - Đứng trước sóng biển trùng trùng lớp lớp - nhân vật trữ tình (em) cảm nhận về nguồn gốc bí ẩn của tình yêu với hai câu hỏi: Sóng bắt đầu từ gió - gió bắt đầu từ đâu? khi nào ta yêu nhau? không ai có thể trả lời cặn kẽ được câu hỏi này. Đó chính là nỗi bí ẩn của tình yêu và cũng vì càng bí ẩn nên càng say đắm, hấp dẫn hơn. - Khi con người đối diện trước thiên nhiên rộng lớn như biển khơi rất dễ sinh ra cảm giác nhỏ nhoi, bất lực, thậm chí rơi vào cảm giác hư vô. Nhưng với tâm hồn nữ tính mang khát vọng tình yêu mãnh liệt thì Xuân Quỳnh hướng tất cả vào tình yêu trần thế. b. Hình tượng "sóng" và "em" bộc lộ vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ: - Sóng tượng trưng cho nỗi nhớ của người phụ nữ khi yêu, nhớ mọi nơi (không gian) lòng sâu, mặt nước, nhớ mọi lúc (thời gian) "Ngày đêm không ngủ được", cũng như thế em nhớ anh đến nỗi "cả trong mơ còn thức". Nghe qua có vẻ mơ hồ, vô lý. Nhưng không, em lúc nào cũng nhớ đến anh, trong mơ, khi thức, khi ngủ, khi tỉnh, khi mơ. Nhớ chính là biểu hiện của tình yêu, khi hết nhớ, cũng là lúc tình yêu chấm dứt. - Nhà thơ tiếp tục một cách nói rất lạ: "Dẫu xuôi về phương bắc - Dẫu ngược về phương nam". Đây là cách nói ngược với cách nói thông thường (ngược bắc xuôi nam). Nhà thơ cố ý lạ hóa ngôn từ để gây ấn tượng. Sự tinh tế nằm ngay trong cái nghịch lí của tình yêu. Hơn nữa, đối với em, đâu chỉ có hai phương bắc và nam, mà còn có thêm một phương anh nữa, phương này là phương của tình yêu đôi lứa, là không gian của tương tư. - Cũng như Sóng, dù muôn vàn cách trở rồi cuối cùng cũng đến được bờ, "Em" ở đây, trên hành trình đi tìm hạnh phúc, cho dù gặp lắm chông gai, trắc trở, nhưng tin tưởng rồi "Em" cũng sẽ tới đến bến bờ hạnh phúc. - Cuộc đời tuy dài rộng, biển tuy vô tận bao la, nhưng tình yêu vẫn được cảm nhận thật cụ thể trong từng ngày tháng. Sống trong tình yêu con người không bao giờ cảm thấy hư vô mà cuộc đời luôn mới mẻ, đầy ý nghĩa. - Cũng như sóng giữa biển lớn tình yêu. Em cũng muốn có được một tình yêu lớn lao, bất tử. "Em" nhân vật trữ tình ở đây bỗng vụt lớn để sánh ngang với biển cả. Quả là một nỗi khao khát lớn lao và cảm động. Quả thật, hình tượng sóng của bài thơ đã thể hiện vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ trong tình yêu vừa tha thiết say đắm, vừa duyên dáng, nồng nàn mà vô cùng trong sáng cao đẹp của tình yêu đôi lứa muôn đời. c. Nét đặc sắc về nghệ thuật: - Sự liên tưởng hợp lí, tự nhiên giữa đặc điểm của sóng và đặc điểm của người con gái đang yêu. Sự liên tưởng này tạo nên hai hình tượng song song, nhưng hai mà một. - Câu thơ năm chữ với những câu ngắn, đều nhau, tạo nên một ý niệm về hình thể của các con sóng, như con sóng dâng trào nhưng có khi chậm rãi nhẹ nhàng như lúc sóng êm biển lặng. - Nhịp điệu của các câu thơ thật đa dạng, mô phỏng cái đa dạng của nhịp sóng : 2/3 (dữ dội và dịu êm - Ồn ào và lặng lẽ). 1/2/2 (sông không hiểu nỗi mình - sóng tìm ra tận bể), 3/1/1 (Em nghĩ về anh, em), 3/2 (Em nghĩ về biển lớn - từ nơi nào sóng lên),v.v... - Các cặp câu đối xứng xuất hiện liên tiếp, câu sau thừa tiếp câu trước, tựa như những đợt sóng xô bờ, sóng tiếp sóng dào dạt. - Âm điệu của bài thơ với nhiều sắc điệu đa dạng, phong phú, tạo nên vẻ tự nhiên cho bài thơ. - Ngoài ra còn phải kể đến tính chất nữ tính trong cách diễn đạt của Xuân Quỳnh, trong cách nhìn sóng của chị: thật dịu dàng đằm thắm nhưng cũng thật dữ dội. Sóng là hình ảnh ẩn dụ của tâm trạng người con gái đang yêu là sự hóa thân, phân thân của cái "tôi" trữ tình của nhà thơ. Cùng với hình tượng "Sóng", không thể không xem xét nó trong mối tương quan với "Em". - Hình tượng sóng trước hết được gợi ra từ âm hưởng dào dạt, nhịp nhàng của bài thơ. Đó là nhịp của những con sóng trên biển cả liên tiếp, triền miên, vô hồi, vô hạn. Đó là âm điệu của một nỗi lòng đang tràn ngập, đang khát khao tình yêu vô hạn, đang rung lên đồng điệu, hòa nhập với sóng biển. - Qua hình tượng sóng, Xuân Quỳnh đã diễn tả vừa cụ thể vừa sinh động nhiều trạng thái, tâm trạng với những cung bậc tình cảm khác nhau trong trái tim của người phụ nữ đang rạo rực khao khát yêu đương. Mỗi trạng thái tâm hồn cụ thể của người con gái đang yêu đều có thể tìm thấy sự tương đồng của nó với một khía cạnh, một đặc tính nào đó của sóng. Kết bài: Có thể khẳng định "Sóng" của Xuân Quỳnh mãi mãi là bài thơ đi cùng năm tháng, nó giăng mắc ở trọ mãi trong tâm hồn của ngừoi yêu thơ. ​​Trước khi chết, vua Phổ cầm tay Moza và nói: "Người tượng trưng cho cái đẹp, ta tượng trưng cho sự sắp đặt của xã hội loài người. Biết đâu sau khi ta chết, hậu thế sẽ quên ta và nhắc nhở tới ngươi." Quả đúng như vậy, ng đời nhắc đến Moza vì ông để lại những nốt nhạc đẹp cho đời. Đó là cái đẹp. Đến với một bài thơ hay là đến với cái đẹp. Người yêu thơ từ trong tiềm thức của mình làm sao không nhớ, không yêu bài thơ "Sóng" của nữ sĩ Xuân Quỳnh. Đọc bài "Sóng", gấp lại trang sách đã lâu nhưng dạt dào trong lòng người yêu thơ với những vần thơ ngập tràn niềm yêu ấy vẫn vỗ mãi trong tâm thế của những con người biết sống vì tình yêu bởi: ​​​​"Người với người sống để yêu nhau ! "

Phân tích bài thơ Cảm xúc mùa thu (Thu hứng) của Đỗ Phủ

. 1.Tác giả Đỗ Phủ (712 -770) là nhà thơ lớn, không chỉ của đời Đường, mà cả của lịch sử thơ ca Trung Quốc. Đỗ Phủ làm thơ từ lúc 7 tuổi, lúc nhà Đường còn phồn vinh, nhưng tài năng của ông nở rộ vào giai đoạn sau sự biến An Lộc Sơn - Sử Tư Minh (755 -763), lúc đất nước Trung Quốc chìm ngập liên miên trong cảnh loạn li. Và khi ấy Đỗ Phủ cùng gia đình cũng phải chạy loạn nhiều nơi. Phản ánh hiện thực và bày tỏ thái độ, tâm trạng trước hiện thực khốn khổ của nhân dân, của nạn chiến tranh, nạn đói là nội dung cơ bản của thơ ca Đỗ Phủ. Ông đặc biệt thành công ở mảng thơ biểu hiện tâm trạng khác nhau khi sống trong cảnh tha phương cầu thực vì loạn li - trong đó nổi tiếng nhất là chùm thơ "Thu hứng" gồm tám bài thất ngôn bát cú Đường luật. 2.Tác phẩm Cảm xúc mùa thu (Thu hứng 1) là bài thơ tiêu biểu cho phong cách thơ trữ tình của Đỗ Phủ. Là một bài thơ tả cảnh và tả tình, bài thơ có kết cấu khá quen thuộc : bốn câu đầu thiên về tả cảnh, bốn câu sau thiên về tả tình. Phong cảnh mùa thu mang những nét đặc trưng của thiên nhiên Trung Quốc. Cảnh vật được nhìn qua tâm trạng của một người đang phải tha phương cầu thực, nhớ quê hương nhưng không thể trở về nên hiu hắt và rất buồn. Bức tranh phong cảnh có đủ màu sắc, hình khối, đường nét và âm thanh, tất cả tạo nên sức gợi cho bài thơ. Đây là một bài thơ điển hình cho thể thơ luật Đường và cho phong cách thơ trữ tình hiện thực Đỗ Phủ. 3. Đỗ Phủ và Lí Bạch là hai đỉnh cao chói lọi của thơ Đường, tạo nên hai khuynh hướng trong Đường thi. Lí Bạch mang phong cách lãng mạn, một người lãng mạn cuồng phóng ; Đỗ Phủ mang phong cách hiện thực, một hiện thực sâu sắc. Cuộc đời của Đỗ Phủ gắn liền với điều kiện xã hội đầy biến động của đất nước Trung Hoa thời loạn An Lộc Sơn -Sử Tư Minh. Chứng kiến cảnh đất nước loạn li và là nạn nhân của xã hội thời loạn nên văn thơ của "Thi thánh" Đỗ Phủ chứa đựng chất liệu hiện thực rất phong phú. Thơ ông được coi là "thi sử" với nghệ thuật điêu luyện và khả năng truyền tải nội dung tư tưởng thời đại rất diệu kì. Xuất thân trong gia đình Nho học, mấy đời làm quan, ông nội là nhà thơ Đỗ Thẩm Ngôn nổi tiếng thời Sơ Thịnh Đường, Đỗ Phủ mang trong mình lí tưởng của người quân tử, muốn tiến thân bằng con đường khoa cử, cứu nước giúp đời. Nhưng triều đình phong kiến thối nát, vua tôi ăn chơi sa đoạ thời ấy đã làm lí tưởng của ông đổ vỡ. Ông bị đẩy xuống tận đáy xã hội và phải chết đói trên con thuyền lẻ loi nơi đất khách quê người. Qua thơ Đỗ Phủ, xã hội đời Đường ở hai giai đoạn trước và sau loạn An Lộc Sơn hiện lên rất đậm nét. Mang tâm trạng đau đời của một con người có trách nhiệm với dân tộc, với đất nước nên thơ ca Đỗ Phủ là những vần thơ thấm nỗi buồn và đẫm nước mắt. Chùm thơ "Thu hứng" thể hiện rất rõ nỗi đau đời ấy của thi nhân. "Thu hứng" được sáng tác năm 766, bốn năm trước khi nhà thơ qua đời. Đây là giai đoạn nhà thơ đang cùng gia đình chạy loạn trong cảnh đói rét và bần hàn, cũng là thời kì chín muồi tài năng của ông. Một bài thất ngôn bát cú Đường thi thường có cấu trúc bốn phần là đề, thực, luận, kết và có những quy tắc riêng cho nội dung từng phần. Thế nhưng cấu trúc ấy cũng có thể chia làm hai phần hần vịnh cảnh và phần tả tình - nhất là đối với những bài trữ tình phong cảnh. Nội dung của bài Thu hứng cũng có thể phân chia theo kiểu cấu trúc thứ hai. Bốn câu đầu tả cảnh, bốn câu sau bày tỏ tâm trạng của nhân vật trữ tình. Tất nhiên cách phân chia này chỉ có ý nghĩa tương đối bởi trong thơ ca nói chung và trong thơ Đường nói riêng, tình và cảnh không thể tách rời, cảnh bao giờ cũng chứa tình và tình thì khó có thể bày tỏ nếu thiếu cảnh. Trong Thu hứng, cảnh và tình hoà quyện tạo nên khả năng biểu đạt tâm trạng cho bài thơ. Thơ Đường thường có những quy định rất chặt chẽ về niêm luật, về thi liệu, về đề tài. Hình ảnh và ngôn từ trong thơ Đường, vì vậy, thường không phong phú. Các nhà thơ thường có thói quen sử dụng một số hình ảnh và ngôn từ mang tính quy ước nhất định. Nhưng chính những yêu cầu ngặt nghèo về thi pháp ấy lại kích thích khả năng sử dụng ngôn ngữ của các nhà thơ cổ điển. Với những hình ảnh và vốn từ ngữ không nhiều ấy họ đã tinh luyện ngôn từ tạo cho ngôn ngữ thơ khả năng cô đọng, hàm súc ở mức tối đa. Cảnh mùa thu là đề tài quá quen thuộc của mọi loại hình nghệ thuật. Thiên nhiên mùa thu dường như đã mang sẵn trong nó phẩm chất tượng trưng nghệ thuật. Mọi loại hình nghệ thuật đều đã có những kiệt tác về đề tài mùa thu. Và trong văn học, nghệ thuật của ngôn từ, thì đề tài mùa thu đã có rất nhiều kiệt tác. Trong thơ ca phương Đông, cảnh mùa thu xuất hiện rất thường xuyên. Vì vậy, xét về đề tài, về hình ảnh thơ thì Thu hứng của Đỗ Phủ không có gì mới lạ. Cái mới lạ thể hiện sự sáng tạo của nhà thơ và cũng là thành công của bài thơ chính là ở nghệ thuật miêu tả, sử dụng sáng tạo niêm luật thơ và nhất là hình tượng của nhân vật trữ tình trong bài thơ. Bốn câu thơ đầu tả cảnh mùa thu với những hình ảnh rất quen thuộc, đó là rừng phong, là khí trời u ám, mặt nước mờ sương : Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm, Vu sơn, Vu giáp khí tiêu sâm. Giang gian ba lãng kiêm thiên dũng, Tái thượng phong vân tiếp địa âm. (Lác đác rừng phong hạt móc sa, Ngàn non hiu hắt, khí thu loà. Lưng trời sóng rợn lòng sông thẳm, Mặt đất mây đùn cửa ải xa.) Bốn câu thơ tả cảnh thu vừa có chất nhạc vừa có chất hoạ. Đủ cả sắc màu, đường nét và âm thanh. Nhưng sắc màu không sáng, thanh âm không vui. Đường nét, hình ảnh của bức tranh thì rất hùng vĩ, mở ra một khung cảnh thiên nhiên với đủ núi rừng, sông nước, bầu trời và cửa ải. Một không gian rộng nhưng có giới hạn chứ không vô tận. Đó là một không gian u ám của một buổi sáng mùa thu không có ánh bình minh. Không khí u ám được gợi lên ở những từ ngữ "điêu thương", "khí tiêu sâm", "tiếp địa âm". Nó gợi cảm giác u ám và lạnh lẽo. Nhạc tính được thể hiện ở nghệ thuật bố trí thanh bằng trắc và cách gieo vần. Bốn câu thơ này có tới ba câu gieo vần bằng, đồng thời lại sử dụng rất nhiều thanh bằng (17/28 thanh bằng), tạo nên cảm giác mênh mang của tâm trạng trữ tình. Xét về nội dung, đây là bốn câu thơ tả thực cảnh mùa thu với những nét thu rất đặc trưng của thiên nhiên Trung Quốc. Tính chất cổ điển của Đường thi thể hiện ở bốn câu thơ này. Có thể hình dung một người hoạ sĩ đứng ngắm mùa thu và cất bút vẽ, bắt đầu nhìn từ cảnh gần, từ rừng phong rồi đến dòng sông, xa hơn nữa là dãy núi và cuối cùng tầm nhìn bị cản trở bởi cửa ải xa

Côn Sơn Ca Tác giả: Nguyễn Trãi

Bài ca Côn Sơn Côn Sơn suối chảy rì rầm, Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai. Côn Sơn có đá rêu phơi, Ta ngồi trên đá như ngồi đệm êm. Trong ghềnh thông mọc như nêm, Tìm nơi bóng mát ta lên ta nằm. Trong rừng có bóng trúc râm, Dưới màu xanh mát ta ngâm thơ nhàn. Về đi sao chẳng sớm toan, Nửa đời vướng bụi trần hoàn làm chi? Muôn chung chín vạc làm gì, Cơm rau nước lã nên tuỳ phận thôi. Đổng, Nguyên để tiếng trên đời, Hồ tiêu ăm ắp, vàng mười chứa chan. Lại kia trên núi Thú San, Di, Tề nhịn đói chẳng màng thóc Chu. Hai đàng khó sánh hiền ngu, Đều làm cho thỏa được như ý mình. Trăm năm trong cuộc nhân sinh, Người như cây cỏ thân hình nát tan. Hết ưu lạc đến bi hoan, Tốt tươi khô héo, tuần hoàn đổi thay. Núi gò đài các đó đây, Chết rồi ai biết đâu ngày nhục vinh. Sào, Do bằng có tái sinh, Hãy nghe khúc hát bên ghềnh Côn Sơn

Phân tích và nêu cảm nghĩ bài Hiền tài là nguyên khí của quốc gia

Bài hiền tài là nguyên khí quốc gia được trích trong bài kí đề danh tiến sĩ khoa Nhâm Tuất, niên hiệu Đại Bảo thứ 3 (1442) do Thân Nhân Trung soạn năm 1484 thời Hồng Đức. Bài kí này được khắc đá hiện còn ở Văn miếu (Hà Nội). Thân Nhân Trung tự là Hậu Phủ quê ở Yên Dũng, Bắc Giang, đỗ Tiến Sĩ làm quan dưới thời Hồng Đức có văn tài lỗi lạc, đức trọng tài cao từng được vua Lê Thánh Tông tin dùng ban chức "Tao đàn phó nguyên suý".Câu mở đầu cho ta biết Thân Nhân Trung được vua Lê Thánh Tông uỷ thác cho trọng trách. Một cách nói vừa kính cẩn, vừa khiêm nhường: "Tôi dẫu nông cạn, vụng về, nhưng đâu dám từ chối, xin kính cẩn chắp tay cuối đầu mà làm bài kí rằng ...". Các tiến sĩ được khắc tên vào bia đá ở Văn Miếu là những hiền tài, những người học rộng, tài cao và có đạo đức. Tác giả coi "Hiền tài là nguyên khí của quốc gia" khẳng định nguyên khí có hệ trọng với sự thịnh suy, hưng vong của đất nước. Cách lập luận của tác giả rất chặc chẽ và đầy sức thuyết phục: "Hiền tài là nguyên khí của quốc gia, nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh, rồi lên cao, nguyên khí suy thì thế nước yếu, rồi xuống thấp". Câu văn đẹp, ý tưởng sâu sắc, ngôn từ trang nhã, phép đối của thể văn cổ biền ngẫu được vận dụng tài tình. Từ xưa đến nay, câu văn này được nhiều nhà viết sử nhắc lại, được nhiều người ghi nhớ và truyền tụng, càng đọc càng suy ngẫm, ta càng thấy rõ: khi hiền tài xuất hiện như hoa mùa xuân thì quốc gia cường thịnh, khi "tuấn kiệt như sao buổi sớm, nhân tài như lá mùa thu" thì vận nước khó khăn, yếu hèn. Tiếp theo Thân Nhân Trung nói về sự quan tâm đào tạo nhân tài là chính sách hàng đầu, là điều quan tâm đặc biệt: 'Vì vậy, các đấng thánh đế minh vương chẳng ai không lấy việc bồi dưỡng nhân tài, kén chọn kẻ sĩ, vun trồng nguyên khí" làm việc đầu tiên. Triều đình nhà Lê, từ năm 1439 trớ đi đã có nhiều việc làm biệt đãi và quý trọng kẻ sĩ. Nào là "đã yêu mến cho khoa danh, lại đề cao bằng tước trật". Nào là "nêu tên ở tháp Nhạn, ban cho danh hiệu Long hổ, bày tiệc Vân hỉ". Sau mỗi khoa thi kén được nhiều tiến sĩ, trạng nguyên, "Triều đình mừng được người tài, không có việc gì không làm đến mức cao nhất". Đó là các việc như đặt ra lệ xướng danh, yết bảng, ban mũ áo, cấp ngựa, đãi yến và vinh quy bái tổ cho những người đỗ đạt cao. Làm thế vẫn chưa đủ, nên vua Lê Thánh Tông, vị thánh minh lại cho khắc tên các tiến sĩ vào bia đá đặt ở cửa Hiền Quan (Quốc Tử Giám) nhằm mục đích "khiến cho kẻ sĩ trông vào mà phấn chấn hâm mộ, rèn luyện danh tiết, gắng sức giúp vua". ý nghĩa sâu xa của việc "dựng đá đề danh ở cửa Hiền Quan" thể hiện việc đào tạo và bồi dường nhân tài, ươm nguồn nguyên khí quốc gia, dược tổ tiên ông cha ta đặc biệt coi trọng, đâu phải là "chuộng văn suông, ham tiếng hão".Trách nhiệm, nghĩa vụ của "kẻ sĩ chốn trường ốc lều tranh" phải như thế nào? Phải "tự trọng tấm thân" rèn đức rèn tài, phải "ra sức báo đáp' ân đức minh quân thánh đế. Sau khi ca ngợi những tiến sĩ "đã đem văn học, chính sự ra tô điểm cho cảnh trị bình suốt mấy chục nãm, được quốc gia tin dùng", Thân Nhân Trung đã nghiêm khắc chỉ trích "những kẻ vì nhận hối lộ mà hư hỏng, hoặc rơi vào hàng ngũ bọn gian ác". Cuối bài văn, tác giả nói lên lợi ích to lớn, tác dụng to lớn của việc dựng bia tiến sĩ ở Vãn Miếu: "kẻ ác lấv đó làm răn, người thiện theo đó mà gắng, dẫn việc dĩ vãng, chỉ lối tương lai, vừa để rèn giũa danh tiếng cho sĩ phu, vừa để củng cố mệnh mạch cho nhà nước". Lí lẽ sắc sáo, lập luận chặt chẽ, đối ý đối lời mạch lạc, giọng văn trang trọng, càng đọc ta càng thấy ý nghĩa tốt đẹp của việc tổ tiên ông cha ta ngày xưa dựng bia đá đề danh tiến sĩ. Trong "Bình Ngô đại cáo" Nguyễn Trãi tự hào viết: "Như nước Đại Việt ta từ trước, Vốn xưng nền văn hiến từlâu". Đọc bài "Hiền tài là nguyên khí của quốc gia" ta càng hiểu rõ sâu hơn nền văn hiến của dân tộc. Chính việc "bồi dưỡng nhân tài, kén chọn kẻ sĩ, vun trồng nguyên khí, (dựng bia tiến sĩ đã góp phần to lớn xây nền văn hiến ngày thêm rạng rỡ).Bài học lịch sử được rút ra từ việc khắc bia ghi tên tiến sĩ là lấy việc giáo dục làm quốc sách, coi trọng việc đào tạo nhân tài, biệt đãi kẻ sĩ để công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

Phân tích bài thơ Con cò của Chế Lan Viên

Bài thơ "Con cò" được sáng tác năm 1962, in trong tập thơ "Hoa ngày thường - Chim báo bão"(1967) của Chế Lan Viên. Viết "Con cò" nhà thơ thông qua một cánh cò tượng trưng dập dìu trong lời ru, câu hát thể hiện được tấm lòng yêu thương và những mong ước của người mẹ với đứa con còn bé thơ. Hình ảnh con cò qua bài thơ mang nhiều ý nghĩa tượng trưng, luôn luôn biến hoá trong tiếng hát về lời ru về con cò, trong cánh cò dập dìu bay lượn. Hình ảnh con cò tượng trưng cho tấm lòng trong trắng, cho những nỗi khổ của ngày qua, cho niềm vui và mơ ước hện nay, cho tình yêu thương rộng lớn của người mẹ cho cái bé bỏng côi cút của con thơ. Dường như, với tính chất tượng trưng con cò trong trường hợp nào cũng đúng cả, cũng để lại cho người đọc nhiều ấn tượng . Bài thơ "Con cò" của Chế Lan Viên viết theo thể thơ tự do, các câu thơ dài ngắn không đều. Toàn bài gồm 51 dòng thơ được chia làm 3 đoạn. Có những dòng thơ 2 tiếng, 3 tiếng, 4 tiếng và cũng có dòng thơ 7,8 tiếng. Khổ thơ cũng không nhất định, khổ đầu 20 dòng ; khổ hai 14 dòng và khổ ba 17 dòng. Rõ ràng là tác giả không hạn định số chữ trong câu, cũng không hạn định số câu trong bài. Điều đó chứng tỏ tác giả đã xây dựng bài thơ theo mạch cảm xúc và đã góp phần khá rõ một số nét phong cách của Chế Lan Viên. Những đoạn thơ bắt đầu bằng những câu thơ mang âm hưởng lời ru có nhịp ngắn, lặp lại về cấu trúc rồi đến những câu thơ dài âm vang mở ra với những liên tưởng xa rộng hoặc suy gẫm tính chất triết lý : Con dù lớn vẫn là con của mẹ Đi hết đời lòng mẹ vẫn theo con. Câu thơ mang một ý nghĩa đúc kết như một phương châm, một triết lý về các mối quan hệ trong đời một con người, nói lên được cái lớn lao và tình yêu vô tận của lòng mẹ. Về mặt ý nghĩa, hình tượng bao trùm cả bài thơ là hình tượng con cò được khai thác từ trong ca dao truyền thống mang ý nghĩa ẩn dụ. Ở đọan đầu bài thơ, tác giả có nhắc lại một số câu quen thuộc trong những bài ca dao xưa, nhưng không nhắc lại nguyên vẹn mà chỉ khai thác và xây dựng ý nghĩa biểu tượng của hình tượng con cò ở nội dung biểu trưng cho tấm lòng người mẹ và những lời hát ru. Ngay từ đầu bài thơ, tác giả đã đưa ta trở về với hình ảnh dịu dàng, quen thuộc, biểu tượng của làng quê việt yên bình : Con còn bế trên tay Con chưa biết con cò Nhưng trong lời me hát Có cánh cò đang bay "Con cò bay la Con cò bay lả Con cò Cổng phủ Con cò Đồng Đăng..." Hình ảnh con cò được gợi ra trực tiếp từ những câu ca dao dùng làm lời hát ru. Ở đây, nhà thơ chỉ dùng lại vài từ trong mỗi câu ca dao xưa vừa gợi lại lời hát ru, vừa gợi lại ít nhiều sự phong phú trong ý nghĩa biểu tượng của hình ảnh con cò :"Con cò bay lả, bay la - Bay từ Cổng phủ, bay ra cánh đồng" hay "Bay từ Cửa phủ bay về Đồng Đăng" chỉ gợi tả không gian và khung cảnh quen thuộc của cuộc sống đời xưa, từ nông thôn đến phố phường. Hình ảnh con cò gợi lên vẻ nhịp nhàng, thon thả, gợi lên nhịp điệu bình yên cuộc sống của cái thuở thanh bình ngày xưa ấy. Còn hình ảnh con cò trong bài ca dao : "Con cò mà đi ăn đêm... đau lòng cò con" lại có một nội dung và ý nghĩa tư tưởng khá sâu sắc. Con cò ở đây tượng trưng cho những con ngừơi, cụ thể là người mẹ, người phụ nữ nhọc nhằn, vất vả quanh năm : "Con cò lặn lội bờ sông, gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non" ; "Cái cò đi đón cơn mưa, tối tăm mù mịt ai đưa cò về". Với những lời ru của mẹ, hình ảnh con cò đã đến với tâm hồn tuổi ấu thơ một cách vô thức. Cùng với nhịp điệu cơ bản của bài thơ như đã nói trên, có phải chăng đây chính là sự khởi đầu cho con đường đi vào thế giới tâm hồn con người của những lời ru : Nhưng trong lời mẹ hát Có cánh cò đang bay... của ca dao, dân ca và cũng qua đó là cả điệu tâm hồn dân tộc, đất nứơc.Ở tuổi ấu thơ, con chưa thể hiểu và cũng chưa cần hiểu nội dung, ý nghĩa của những lời ru mà chỉ cần đón nhận bằng trực giác, bằng vô thức, sự vỗ về, nâng niu trong những âm điệu ngọt ngào, tha thiết, dịu dàng của lời ru thể hiện tình yêu vô bờ bến và sự chở che của người mẹ : "Ngủ yên ! Ngủ yên ! Con ơi chớ sợ ! Cành có mềm, mẹ đã sẵn tay nâng Trong lời ru của mẹ thấm hơi xuân Con chưa biết con cò, con vạc Con chưa biết những cành mềm mẹ hát Sữa mẹ nhiều con ngủ chẳng phân vân." Nhịp hai và vần đóng, mở ngân vang xen kẽ nhau trong dòng thơ, kết hợp biện pháp tu từ nhân hoá, và biệân pháp tu từ so sánh đã tạo nên vẻ lạ cho câu thơ vàlàm cho ý thơ càng thêm sâu kín: Con chưa biết con cò con vạc. Con chưa biết những cành mềm mẹ hát, Sữa mẹ nhiều con ngủ chẳng phân vân. Đoạn thơ khép lại bằng những hình ảnh thanh bình của cuộc sống, bằng những giấc nồng say của trẻ thơ. Qua kết cấu của bài thơ -Hình ảnh "con cò" từ trong lời ru của đoạn 1 đã đi vào tiềm thức của tuổi thơ ở đoạn 2 - hình ảnh con cò đã trở nên gần gũi thiết thân và sẽ theo cùng con người đến suốt cuộc đời và ở đâu hình ảnh con cò trong ca dao cũng tiếp tục được sự sống của nó trong tâm thức con người. Hình ảnh con cò đã được xây dựng bằng sự liên tưởng, tưởng tượng phong phú của nhà thơ, con cò được bay ra từ những câu ca dao để sống trong tâm hồn của trẻ thơ qua lời ru của mẹ, lời ru thấm đượm tình cảm thân thương trìu mến, lời ru nặng nghĩa, nặng tình : Ngủ yên ! Ngủ yên ! Ngủ yên ! Con cò trắng đến làm quen, Cò đứng ở quanh nôi Rồi cò vào trong tổ. "Cò vào trong tổ" hoà nhập cùng những ước mơ, khát vọng của tuổi thơ, hoà cùng chung những giấc mơ đẹp trong lời ru hiền hoà của mẹ, và rồi hình ảnh con cò qua lời ru đã đi theo cùng và nâng đỡ con người trong mỗi chặng đường, trong suốt cả cuộc đời : Cái cò ... Sung chát, đào chua... Câu ca mẹ hát gió đưa về trời Ta đi trọn kiếp con người Cũng không đi hết mấy lời mẹ ru. (Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa - Nguyễn Duy) Lời mẹ ru : "Con cò bay lả bay la - Bay từ cổng Phủ bay ra cánh đồng" "Con cò bay lả bay la - Bay từ cửa Phủ bay về Đồng Đăng" "Cái cò đi đón cơn mưa - Tối tăm mù mịt ai đưa cò về" "Cái cò mà đi ăn đêm..., Đừng xáo nước đục đau lòng cò con" Như thế, hình ảnh con cò đã trở thành biểu tượng về lòng mẹ, về sự dìu dắt, nâng đỡ đầy dịu dàng, thân thương và lo lắng xót xa, suy gẫm về cuộc đời của đưa con thơ một cách bền bỉ của người mẹ thương con : Trời mưa Quả dưa vẹo vọ Con ốc nằm co Con tôm đánh đáo Con cò kiếm ăn ... Và cánh cò cũng đã trở thành bạn đồng hành của con người trên suốt cả đường đời từ tuổi ấu thơ trong nôi : Con ngủ yên thì cò cũng ngủ, Cánh của cò, hai đứa đắp chung đôi. Và đến tuối tới trường : Mai khôn lớn, con theo cò đi học, Cánh trắng cò bay theo gót đôi chân. Và cả đến lúc trưởng thành : Cánh cò trắng lại bay hoài không nghỉ Trước hiên nhà Và trong hơi mát câu văn. Đến đoạn 3, nhịp thơ thay đổi như dồn dập hẳn lên, hình ảnh con cò như được nhấn mạnh ở ý nghĩa biểu tượng cho tấm lòng người mẹ, lúc nào cũng ở bên con suốt đời : Dù ở gần con, Dù ở xa con, Lên rừng xuống bể, Cò sẽ tìm con, Cò mãi yêu con. Không gian nghệ thuật của bài thơ cũng góp phần biểu hiện sự phát triển của tứ thơ, của tình cảm và hành động của nhân vật trữ tình. Từ một không gian có giới hạn ngày càng rộng dần thêm đến một không gian tâm tưởng vừa bao la vừa sâu thẳm như chính lời hát lên từ trái tim người mẹ: Con dù lớn vẫn là con của mẹ, Đi hết đời, lòng mẹ vẫn theo con. Từ sự thấu hiểu tấm lòng người mẹ, nhà thơ đã khái quát, đúc kết một quy luật của tình cảm có ý nghĩa như một phương châm, một triết lý bền vững, rộng lớn và vô cùng sâu sắc. Đó cũng chính là một ưu thế của nhà thơ Chế Lan Viên khi viết về một suy tưởng đầy triết lý. Phần cuối bài thơ trở lại với âm hưởng lời ru và đúc kết ý nghĩa phong phú của hình tượng con cò trong những lời ru ấy : Một con cò thôi, Con cò mẹ hát, Cùng là cuộc đời, Vỗ cánh qua nôi. Lời ru ấy được lặp đi, lặp lại qua từng đoạn thơ đã tạo nên một nét nhạc vừa dân gian vừa hiện đại xuyên suốt bài thơ. Vẻ đẹp của hình ảnh con cò - một hình tượng thống nhất tuyệt vời giữa tình cảm, hành động và ước mơ qua lời ru của mẹ ngày càng được khắc thêm đậm nét. Sức biểu hiện của "con cò" cũng thật là phong phú. Có thể nói "Con cò" là một bài thơ hay. Thông qua cánh cò tượng trưng dập dìu trong lời thơ, câu hát, Chế Lan Viên muốn nói lên tấm lòng yêu thương và những mong ước của người mẹ với đứa con và chắc rằng có em bé nào lớn lên trong lời ru ấy mà không hiền hoà hiếu thảo, không nên người ! Ngày nay, mỗi lần đọc lại bài thơ "Con cò" vẫn gợi lên những rung động và suy nghĩ sâu sắc về công ơn sinh thành của người mẹ. Từ đó mỗi người chúng ta càng thấy rõ trách nhiệm của mình trước lòng mẹ bao la, dạt dào thân thương và trìu mến, trước cuộc sống hôm nay của đất nước. "Con cò" cùng với những bài thơ khác trong " Hoa ngày thường - Chim báo bão","Ánh sáng phù sa" giúp chúng ta thấm thía hơn những "Trang đời, trang viết nặng nghĩa đời sau" của nhà thơ Chế Lan Viên.

Phân tích truyện ngắn Bến quê của Nguyễn Minh Châu

Bước ra khỏi chiến tranh, mỗi người lính có một ngã rẽ riêng để trở về với cuộc đời thường nhật. Trong vô vàn cái bãng lặng lẽ trở về ấy, ta bắt gặp như vô tình cái bãng hình nhà văn Nguyễn Minh Châu. Trở về lặng lẽ, tiếp tục tìm tòi lặng lẽ, ngòi bút Nguyễn Minh Châu vẫn chứa đựng những khám phá mới mẻ, sâu sắc, vẫn mang cái nhìn từng trải chắc chắn của con người đã tôi luyện qua lò lửa chiến tranh. Chính bằng ngòi bút ấy, nhà văn đã dựng lên một "Bến quê" mang ý nghĩa triết lí, mang đầy trải nghiệm về một đời người. Có lẽ sẽ chẳng ai gấp lại trang sách "Bến quê" mà không cảm thấy một nỗi buồn bồi hồi, xúc động trào dâng. Có chút gì đó se sẽ buồn, có chút gì đó se sẽ xót xa, ân hận nhưng những cảm nhận sâu sắc về vẻ đẹp bình dị, gần gũi của quê hương thì vẫn còn lắng đọng mãi mãi trong sâu thẳm tâm hồn mỗi người đọc chúng ta. Cũng như nhiều tác phẩm của mình, trong "Bến quê", Nguyễn Minh Châu đã khai thác rất thành công tình huống truyện mang đầy nghịch lí.Có lẽ những nghịch lí ấy, dưới ngòi bút tài hoa là thứ công cụ đắc lực nhất, thể hiện một chiều sâu triết lí, tư tưởng. Mở đầu trang truyện, hình ảnh Nhĩ -nhân vật chính- hiện lên trong hoàn cảnh thật đángthương."Suốt cuộc đời, Nhĩ đã từng đi tới không sót một xó xỉnh nào trên Trái Đất. Vậy mà, gần một năm nay căn bệnh quái ác đã cột chặt lấy anh vào giường bệnh. Liệt toàn thân, tự nhích người di chuyển vài chục phân trên tấm nệm khó bằng bay nửa vòng Trái Đất, sinh hoạt chủ yếu nhờ vào sự giúp đỡ của Liên. Anh giờ đây dâu có khác một đứa trẻ là mấy. Chiếc giường bệnh dường như là chiếc nôi, còn đôi bàn tay người vợ tần tảo dường như là đôi bàn tay người mẹ thủa nào, vẫn hiện về trong miên man kí ức. Đã có lần anh nhận ra trong một dòng suy nghĩ hài hước cái hoàn cảnh không biết phải gọi là bi kịch hay hài kịch của bản thân:"Nhĩ nhận thấy hoàn cảnh của mình thật buồn cười, y như một đứa bé mới đẻ đang toa toét cười với tất cả, tận hưởng sự thích thú được chăm sóc và chới với" Đó là nghịch lí hay số mệnh? Đã là số mệnh sao lại phũ phàng đến thế?Có lẽ nào nghịch lí cuộc đời đã nhiều lần bắt anh day dứt thế chăng? Trong những ngày như thế, anh có nhiều thời gian hơn để suy ngẫm và chiêm nghiệm về cuộc đời trong những ngày tháng đã qua. Và số mệnh lại một lần nữa cất cao tiếng nói, vẫn là nghịch lí, nhưng là một nghịch lí con người đã quên bẵng bấy lâu. Nhĩ nhận ra vẻ đẹp của cái bãi bồi bên kia sông Hồng, ngay trước khung cửa sổ. "Cả một vùng phù sa lâu đời của bãi bồi ở bên kia sông Hồng, lúc này đang phô ra trước cửa sổ gian gác nhà Nhĩ một thứ màu vàng thau xen lẫn với màu xanh non-Những sắc màu quen thuộc quá, như da thịt, hơi thở của đất màu mỡ". Có ngờ đâu cả cuộc đời Nhĩ đã từng in gót khắp năm châu mà chưa tùng một lần đặt chân lên cái bờ sông trước mặt mình. Như một định mệnh, miền đất cuộc đời anh mãi mãi chẳng thể đặt chân lên. Nghịch lí cuộc đời, bất chấp lời khẩn khoản tha thiết nhất của Nhĩ, vẫn sắp đặt một định mệnh để Tuấn- con anh- sà vào đám cờ phá thế ven đường và mơước cháy bỏng đến cuối cuộc đời anh mới chiêm nghiệm ra tắt vụt trong vô vọng. Đó có lẽ cũng là một nhận thức về cuộc đời mà nhà văn lặng lẽ gửi vào tình huống mang nghịch lí phũ phàng với cái tâm hồn khắc khoải trong những ngày tháng cuối cuộc sống và số phận con người chứa đầy những ngẫu nhiên, những nghịch lí vượt khỏi dự định, ước muốn, sự hiểu biết và cả toan tính của con người. Bằng suy ngẫm, bằng tổng kết qua biết bao trải nghiệm con người mới nhận ra triết lí mà cuộc đời nào rồi cũng phải đón nhận : Con người ta, bước trên đường đời khó tránh khỏi những vòng vèo, chùng chình cuộc sống giăng ra trước lối. Chỉ có những vẻ đẹp gần gũi thiêng liêng là có thể cho ta chỗ dựa, nâng cho ta tiếp bước trên đường đời. Với Nhĩ, đó là cái bãi bồi bên kia sông, là người vợ tần tảo giàu đức hi sinh, đến lúc này anh mới thấm thía. "Bến quê" được viết theo cách nhìn và tâm trạng của nhân vật Nhĩ, nó mang màu sắc và chiều sâu nội tâm rất chủ quan của cá nhân nhân vật trữ tình. Ngòi bút Nguyễn Minh Châu đã tạo nên một sức hút mạnh mẽ khi xây dựng nhân vật Nhĩ mang những tình cảm, suy ngẫm sâu sắc, chan chứa trải nghiệm, triết lí về đời người, về ý nghĩa của những điều ta chiêm nghiệm được từ cuộc sống và cuộc đời mỗi con người. Những ngày cuối cuộc đời, trong cái dòng chảy của suy ngẫm và tình cảm mới xuất hiện nơi Nhĩ, thiên nhiên như đẹp hơn, chiếu vào cuộc đời Nhĩ cái nhìn gần gũi, trìu mến hơn tất cả những gì anh đã từng được biết. Sáng đầu thu hiện lên trong không gian gần xa như một bức tranh lên cái thần của cảnh sắc. Đó là những b«ng hoa bằng lăng nở muộn sắc đang phai giữa không gian vời vợi trong vắt của bầu trời. Nắng soi lên dòng s«ng uốn lượn mềm mại, đỏ nhàn nhạt màu nước phù sa, soi lên cái chiều rộng, chiều sâu của bãi bồi ngay trước khung cửa sổ. Nó là tâm điểm cũng là cái thần sắc của bức tranh... Nhĩ say sưa chiêm ngưỡng vẻ đẹp đến kì lạ áy, chiêm ngưỡng trong sự bất ngờ, ngạc nhiên đến thích thú. Cũng phải thôi, sau bao ngày in gót khắp năm châu, đây là những phút cuối cùng anh được sống thanh thản giữa quê hương, giữa những cảnh vật, con người đã ngàn lần phô ra trước mắt. Anh thấy nó đẹp đến kì lạ, bởi vì đó là lần đầu tiên anh say sưa chiêm ngưỡng nó, say sưa khám phá cái ẩn mình bên trong lớp vỏ gần gũi, hiền lành đã quen thuộc bấy lâu. Có lẽ anh đã yêu, yêu tha thiết sự giàu có, đơn sơ, gần gũi mà vô cùng mới mẻ của thiên nhhiên. Nhưng khi tình yêu ấy chớm nở, cũng là lúc con người Nhĩ nhận ra nó đã nhen lên trong vô vọng. Anh có thời gian để ngắm nhìn nó nhưng thời gian để bước đi, số phận đã cướp đoạt khỏi tay anh. Cay đắng nào bằng khi nhận ra cảnh vật kia, dù chỉ cách đôi bờ ngầu đỏ của con song quen thuộc mãi mãi là miền đất xa lắc. Đến với nó chỉ là giấc mơ xa vời tầm tay. Nếu thiên nhiên khiến Nhĩ say mê và thất vọng thì những người thân gợi lên trong anh nỗi buỗn xen lẫn những mặc cảm, xót xa tê tái. "Lần đầu tiên Nhĩ để ý thấy Liên đang mặc tấm áo vá" đó cũng là lần đầu tiên nỗi buồn về gia đình quặn lên trong anh. Cái nghèo khó của gia đình không giấu được qua mảnh vá trên chiếc áo Liên đang mặc, trên đôi tay gầy gò. Nhĩ đã thấu hiểu sự vất vả, hi sinh thầm lặng của người vợ hiền thảo. Trong câu nói của anh với Liên có sự bỏ lửng như sự tắc nghẽn của tâm hồn, của trái tim: "Suốt đời anh chỉ làm em khổ tâm...mà em vẫn nín thinh" Nhĩ không nói mà cũng không dám nói. Cái ngắt quãng ấy là bao vất vả, khó khăn Liên lặng lẽ gánh vác để lo cho gia đình. Nó âm thầm như cái âm điệu câm lặng của dấu ba chấm. Trong có dường như còn chứa chan cả mồ hôi, nước mắt đắng cay Liên đã nuốt thầm, đã chịu đựng. Nhĩ không dám nói điều đó, vì nó là lưỡi dao cứa vào long anh, cứa cả vào long vợ. Anh là trụ cột của gia đình mà chưa một lần anh làm cho gia đình ấy được sung sướng. Cuộc đời Liên từ khi sống với anh cũng đâu có khác trước. Qua những lời dịu dàng của Liên anh đã hiểu tình yêu Liên dành cho mình nhưng điều đó càng khiến anh day dứt vì trách nhiệm của người chồng, người cha chưa bao giờ trọn ven. Ở nơi anh trào dâng bao xúc cảm. Đó là sự thương cảm với cuộc đời tần tảo, lặng lẽ của vợ, "Một đời người đàn bà trên những bậc gỗ mòn lõm", Đó là sự xúc động khi anh tìm được cho mình nơi nương tựa là gia đình, là người vợ tần tảo, giàu đức hi sinh, mãi mãi trọn vẹn nguyên phẩm chất: :Cũng như cánh bãi bồi đang nằm phơi mình bên kia , tâm hồn Liên vẫn giữ nguyên vẹn những nét tần tảo và chịu đựng hi sinh từ bao đời xưa". Vào cái buổi sáng đầu thu ấy, khi đã nhận ra vẻ đẹp rất đỡi bình dị gần gũi của cảnh vật, trong tâm hồn Nhĩ cháy lên một cái gì đó mơ hồ như một dự cảm, một cái gì đó cháy bỏng như một khát khao. Dường như bằng trực giác Nhĩ đã nhận ra thời gian của đời mình chẳng còn bao lâu nữa. Câu hỏi anh bất chợt hỏi vợ như một sự tính toán thời gian vể cái ngày anh biết chắc sẽ đến nay mai. Nhà văn Giắc Lân-đơn từng viết: "Thiên nhiên có nhiều cái nhắc nhở con người về cái chết". Với Nhĩ có lẽ cũng vậy thôi. Có lẽ anh cũng hiểu rằng màu sắc của những chùm bằng lăng bỗng trở nên đậm sắcc hơn, những tảng đất đổ oà vào giấc ngủ, chúng cũng như cuộc đời anh, tàn tạ, héo hắt dần, chuẩn bị cho sự đứt lìa khỏi cuộc sống. Cảm giác về cái chết treo lơ lửng dường như thôi thúc cái khát khao trong anh cháy bỏng hơn, gấp gáp hơn trước khi những đốm tàn của ngọn lửa sự sống tắt lịm hẳn. Những ngày cuối cùng này anh chỉ có một khát khao duy nhất: được đặt chân lên bờ đất phía bên kia sông.Mới đây thôi anh đã khám phá ra cái vẻ đẹp diệu kì của cái bên kia sông.Một miền đất của trù phú và mơ ước.Cái tưởng chừng dễ dàng nhất người ta thường hay bỏ qua và rồi sau này lại phải hối tiếc về điều đó. Rất nhiều, rất nhiều nơi xa xăm Nhĩ đã bước chân qua vậy mà, cái bãi bồi ngay bên kia thôi chưa một lần anh đặt bàn chân tới. Đến khi mơ ước, đến khi khát khao thì anh không thể cất bước để tiến về miền đất ấy nữa. Anh như một nhà thám hiểm, them khát khám phá chân trời mới nhưng con tàu đi tới thì đã mãi mãi ở lại với biển khơi. Mơ ước rồi cũng là vô vọng. Tuy khoảng trời kia chỉ cách ô cửa sổ của Nhĩ thôi nhưng dường như mãi mãi xa vô cùng tận. Có lẽ trong những lần khắc khoải hướng ánh mắt sang bãi bồi bên kia song, không ít lần Nhĩ mang trong lòng những suy ngẫm, những trải nghiệm về chính bản thân. Cái bờ bên kia không dừng lại ở ý nghĩa hiện thực nữa, nó hàm chứa những giá trị biểu tượng vô cùng thiêng liêng. Bến bờ ấy cũng có thể làcuộc đời chưa đi tới, phần cuộc mà mỗi con người đều muốn khám phá dù biết rằng nó là không giới hạn. bến bờ ấy cũng có thể là bến đậu quê hương, bến đậu cuộc đời, bến đậu của những giá trị tinh thần gẫn gũi mà ý nghĩa. Bãi bồi, bến song, con đò như một phần vẻ của cuộc sống, đơn sơ, giản dị gắn bó như chính gia đình, như chính quê hương. Khao khát tìm đến những giá trị gần gũi nhưng đích thực trong cuộc sống, nơi quê hương mà con người bồng bột với nhiều ham muốn thời trai trẻ đã bỏ qua. Nó là một sự thức tỉnh có xen niềm ân hận và nỗi xót xa. Niềm ân hận và xót xa khi con người đã nhận thức được quy luật khắc nghiệt của cuộc đời. Cánh buồn chỉ một lần duy nhất qua song. Đường đời cũng như thế, chỉ có ai không do dự, không chậm chạp dềnh dàng mới có thể bước vững vàng đi tới phía trước. Nhĩ không thể đặt chân lên con đò đưa đến khát khao. Anh đành gửi gắm tất cả tình cảm, tất cả niềm tin vào Tuấn, nhờ Tuấn giúp anh đặt chân lên cái bên kia song ước mơ. Tiếng nện dép ra bờ xa dần mang theo bao háo hức của tâm hồn người cha tội nghiệp. Nhĩ đã hi cọng, đã tưởng tượng thấy Tuấn, như một nhà thám hiểm chậm rãi bước khoan thai trên cái bãi bồi trước khung cửa sổ. Nhưng ở đời người ta khó tránh khỏi những điều vòng vèo, chùng chình. Tuấn đâu có thể hiểu được ý nghĩa thiêng liêng chứa trong ước muốn của cha. Cậu sà vào ván cờ phá thế trên đường tự nhiên như cách con người vướng phải những cám dỗ trong cuộc sống. Nhĩ không trách Tuấn. Anh đã từng một thời như Tuấn, anh hiểu ở cái tuổi như Tuấn, Người ta chưa đủ chin chắn để nhận ra vẻ đẹp thưc sự, vẻ đẹp vẹn nguyên cả trong những nét tiêu sơ của cuộc đời. Chỉ có anh, đã từng trải, đã đi qua rất nhiều phương trời, đã nếm trải rất nhiều tình cảm, cảm xúc mới thấy yêu thấy quý, những giá trị bình dị giản đơn kia. Chỉ có anh mới hiểu nó ý nghĩa đến nhường nào với mỗi con người trong cuộc sống. Đó cũng là chân lí cuộc đời. Nhĩ đã phát hiện chân lí ấy để rồi hồi hộp và say mê chờ đợi được khám phá nó trong tấm gương cuộc đời. Với anh đó phải chăng là niềm hạnh phúc cuối cùng anh có thể hưởng trước khi nhắm mắt xuôi tay, một niềm hạnh phúc giản đơn chiêm nghiệm từ cả cuộc đời. Anh giữ trọn trong tâm hồn khao khát và ước mơ. Thu hết mọi sức tàn Nhĩ bấu chặt vả mười đầu ngón tay vào cái hậu cửa sổ, vừa run lẩy bẩy. anh dường như đang níu giữ cho mình một cái gì đó? Có thể là niềm hạnh phúc nhỏ nhoi mà tha thiết kia chăng? Hay đó còn là một lẽ sống, một giá trị tinh thần thiêng liêng anh đã rút ra trong những ngày cuối cùng trước khi giã từ cuộc sống. Nhưng kìa, Nhĩ đang đu mình ra ngoài, "giơ một cánh tay gầy guộc ra phía ngoài cửa sổ khoát khoát y như đang khẩn thiết ra hiệu cho ai đó". Hành động cuối cùng của giấc mơ. Ngay khi đó con đò ước mơ cập bến. Nhĩ dã cố hết sức để thúc giục đứa con giúp anh hoàn thành nốt cái khát khao còn dang dở. Nhĩ đã cố hết sức để gửi đến mọi người lời nhắn nhủ thức tỉnh, thoát khỏi sự vòng vèo, chùng chình chúng tax a vào để hướng đến những giá trị đích thực mà gần gũi trong cuộc sống. Lời nhắn nhủ của Nhĩ cũng có thể là lời cuối cùng của cuộc đời anh. Nó thiêng liêng như cô đúc cả cuộc đời con người vậy. Sẽ chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi Nguyễn Minh châu hoá thân vò nhân vật để nhắn nhủ những lời tha thiết chân thành đến như thế. Nó chứa trong biểu tượng nhung cũng đẹp, cũng gần gũi như chinh cuộc đời.

Soạn văn - bài Đồng chí của Chính Hữu

BỐ CỤC : 3 phần : - Phần 1 : câu 1-7 : lí giải cơ sở của tình đồng chí. - Phần 2 : câu 8 - 17 : những biểu hiện và sức mạnh của tình đồng chí. - Phần 3 : câu 18 - 20 : chất thơ trong cuộc sống chiến đấu gian khổ của người lính. CÂU 1. · Dòng thơ thứ 7 có điểm đặc biệt, đó là : dòng thơ chỉ có hai tiếng : "đồng chí". · Câu thơ ngắn, cùng với hình thức cảm thán mang hai âm điệu vui tươi, vang lên như một sự phát hiện, một lời khẳng định. Hai tiếng " đồng chí" nói lên một tình cảm lớn lao,mới mẻ của thời đại. · Sáu câu thơ đầu đã giải thích cội nguồn và sự hình thành tình đồng chí của tình đồng chí giữa những người đồng đội. Câu thơ thứ 7 là " bản lề" khép lại đoạn 1 để mở ra đoạn 2. CÂU 2. Sáu dòng đầu nói về cơ sở hình thành tình đồng chí. Đó là : - Tình đồng chí bắt nguồn từ sụ tương đồng về hoàn cảnh xuất thân của những người lính : " Quê hương anh nước mặn đồng chua Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá". =>Hai miền đất, hai miền quê xa lạ, nhưng cùng chung cái " nghèo", cái khắc nghiệt của thiên nhiên, của cuộc sống. Xuất thân của họ, đều là từ những người nông dân. - Tình đồng chí hình thành từ sự cùng chung nhiệm vụ, chung lí tưởng, sát cánh bên nhau trong hàng ngũ chiến đấu : " Súng bên súng đầu sát bên đầu". =>Họ không quen nhau, nhưng lí tưởng chung của thời đại đã gắn kết họ lại với nhau trong hàng ngũ cách mạng. " Súng" biểu tượng cho nhiệm vụ chiến đấu, " đầu" biểu tượng cho lí tưởng, suy nghĩ. - Tình đồng chí nảy nở và trở thành bền chặt trong sự chan hòa và chia sẻ mọi gian lao cũng như niềm vui : " Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ". =>Cái khó khăn thiếu thốn hiện ra : đêm rét, chăn không đủ nên phải đắp chung. Nhưng chính sự " chung chăn", chia sẻ ấy đã trở thành niềm vui, thắt chặt tình cảm của những người đồng đội để trở thành "đôi tri kỉ". CÂU 3. Những biểu hiện cảm động của tình đồng chí : - Tình đồng chí là sự cảm thông sâu sắc tam tư, nỗi niềm của nhau. Những người lính gắn bó với nhau, họ hiểu đến những nỗi niềm thầm kín, sâu xa của đồng đội mình : " Ruộng nương....người ra lính". =>Người lính đi chiến đấu để lại sau lưng mình những gì thương quý nhất của quê hương : ruộng nương, gian nhà, giếng nước gốc đa...Từ " mặc kệ" cho thấy tư thế ra đi dứt khoát của người lính. Nhưng sâu thẳm trong lòng, họ vẫn da diết nhớ quê hương, đến gia đình... - Tình đồng chí còn là cùng nhau chia sẻ những gian lao, thiếu thốn của cuộc đời người lính : " Anh với tôi...tay nắm lấy bàn tay". =>Những gian lao, thiếu thốn của người lính hiện lên rất cụ thể : + áo rách, quần vá, chân không giày... + Sốt rét, trời lạnh buốt giá... =>Thế nhưng những người lính vẫn cười trong gian lao, bởi có hơi ấm và niềm vui của tình đồng chí " thương nhau tay nắm lấy bàn tay". Hơi ấm ở bàn tay, ở tấm lòng đã chiến thắng cái lạnh ở " chân không giày" và thời tiết " buốt giá". Trong đoạn thơ, " anh" và " tôi" luôn đi với nhau, có khi đứng chung trong một câu thơ, có khi đi sóng đôi trong từng cặp câu liền nhau. Cấu trúc ấy đã diễn tả sự gắn bó, chia sẻ những người của những người đồng đội. CÂU 4. " đêm nay rừng hoang sương muối Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới Đầu súng trăng treo". =>Có thể thấy, đó là hình ảnh của một cuộc chiến đấu gian khổ. Sự khắc nghiệt của thời tiết, của địa hình, cái giá buốt của sương muối, cảnh rừng đêm hoang vắng, lạnh lẽo vẫn không khuất phục được người lính. Họ vẫn đứng cạnh nhau, sát cánh bên nhau để " chờ giặc tới". Tình đồng chí đã sưởi ấm cho họ, giúp họ vượt lên tất cả. - Câu thơ cuối cùng thật đặc sắc : " đầu súng trăng treo". Đó là một hình ảnh thực mà tác giả nhận ra trong những đêm canh gác, phục kích giữa rừng khuya. Là một hình ảnh chân thực, nhưng nó lại gợi đến những liên tưởng phong phú, sâu xa : " súng" là biểu tượng cho chiến tranh, cho khốc liệt. "Trăng" là hiện thân của vẻ đẹp yên bình, thơ mộng và lãng mạn. Hai hình ảnh kết hợp với nhau tạo nên một biểu tượng đẹp về cuộc đời người lính : chiến sĩ mà thi sĩ, thực tại mà mơ mộng. Hình ảnh ấy mang cả đặc điểm của nền thơ ca thời kháng chiến : một nền thơ giàu chất hiện thực và dạt dào cảm hứng lãng mạn. CÂU 5. Nội dung chính của bài thơ là nói về tình đồng chí gắn bó thân thiết, sâu sắc. Tuy nhiên, tác giả không đặt tên là " tình đồng chí" mà chỉ đặt hai chữ " đồng chí". Có thể thấy, cách đặt tên như vậy súc tích và có ý nghĩa tốt hơn trong việc diễn tả cảm xúc bản thân cũng như không làm ý bài thơ " lộ liễu". Nếu đặt " tình đồng chí" người đọc có thể có cảm giác " thừa", bởi lẽ trong bài thơ đã bộc lộ rõ điều đó, không nhất thiết phải nêu ở nhan đề. Đặt hai từ " đồng chí" làm tiêu đề, sẽ phù hợp hơn khi nói về nhiều vấn đề, khía cạnh liên quan như : cơ sở hình thành tình đồng chí, xuất thân của họ, chất thơ trong tâm hồn họ khi mà cuộc kháng chiến đang diễn ra rất ác liệt...=> Ngắn gọn, súc tích và giá trị biểu cảm cao hơn. CÂU 6. Qua bài thơ, có thể thấy hình ảnh của anh bộ đội hiện lên bình dị, gần gũi và thật đẹp. Họ xuất thân là nông dân nhưng có lí tưởng cao cả, cầm súng chiến đấu để giành lại độc lập, tự do cho đất nước. Khó khăn, gian khổ không làm mất đi lí tưởng đó, mà gắn bó họ với nhau thành những người đồng chí, đồng đội với tình cảm gắn bó sâu sắc. Người chiến sĩ trong bài thơ không những thực tại mà còn mơ mộng, vừa là người chiến sĩ, vừa là thi sĩ. Chiến đấu gian khổ, là để hướng đến ngày mai hòa bình, tươi sáng.

Cảm nhận về khổ cuối bài thơ Sang thu của Hữu Thỉnh

Cuối hạ, thu đến mang theo những cảm xúc bất chợt để lại trong lòng ai những bồi hồi, xao xuyến về một mùa thu nồng nàn, êm ái. Ngày hạ đi để nhường chỗ cho nàng thu dịu dàng bước tới, sự chuyển mình giữa hai mùa thật nhẹ nhàng và ngập ngừng như lưu luyến, vấn vương một cái gì đó của thời đã qua. Khoảnh khắc ấy thật đẹp, nhưng không phải ai cũng dễ dàng nhận thấy. Riêng nhà thơ Hữu Thỉnh thì khác, ông đã có một cái nhìn thật tinh tường, một cảm nhận thật sắc nét và một cách sống hòa hợp với thiên nhiên nên mới có thể vẽ lại bức tranh in dấu sự chuyển mình của đất trời qua bài thơ "Sang Thu" - linh hồn của cả bài thơ chỉ vẻn vẹn trong hai từ thế thôi, song ý nghĩa sâu sắc chất chứa trong hai từ ngắn ngủi ấy lại không hề ít. Và có lẽ những ý nghĩa đó, lại tập trung nhiều hơn vào khổ thơ cuối bài: "Vẫn còn bao nhiêu nắng Đã vơi dần cơn mưa Sấm cũng bớt bất ngờ Trên hàng cây đừng tuổi" Mở đầu khổ thơ vẫn là nắng và mưa của mùa hạ đấy thôi, nhưng chỉ là "vẫn còn" và "vơi dần" - tất cả ngày một nhạt đi, chứ không như cái nắng gay gắt, chói chan cùng cơn mưa ào, xối xả của một mùa hạ sôi động nữa. Dường như vẫn còn luyến tiếc lắm, nhưng cuối cùng hạ vẫn phải chấp nhận rằng: "thu sang" và hạ phải đến một chân trời khác. Bằng nghệ thuật ẩn dụ sâu sắc, Hữu Thỉnh đã kết thúc khổ thơ qua hai câu văn thấm đẫm triết lý đáng để ta phải suy ngẫm: "Sấm cũng bớt bất ngờ Trên hàng câu đừng tuổi." "Sấm" - đơn thuần là một hiện tượng đặc trưng của mùa hạ khi trước và sau cơn mưa lớn, "cây đứng tuổi" - theo nghĩa dễ hiểu nhất thì đó chỉ là những cái cây đã nhiều tuổi vì sống lâu năm. Nhưng điều mà Hữu Thỉnh muốn gửi đến chúng ta đâu chỉ là những điều giản đơn đến thế, mà "sấm" ở đây cũng được xem là những thăng trầm, sóng gió của vòng đời luôn thay đổi và qua những gian nan, thử thách ấy, con người cũng sẽ đổi thay một cách mạnh mẽ hơn và vững vàng hơn. Hình ảnh "hàng cây đứng tuổi" - tức chỉ người từng trải, những con người đã nếm được hết mùi vị ngọt ngào, cay đắng, mặn mà hay chua chátcủa cuộc sống, và tất nhiên khi họ đã trải nghiệm qua những khó khăn đó, thì giờ đây sẽ không phải rơi vào tình thế xao động hay lung lay trước những biến cố của vòng xoáy cuộc đời nữa. Nhìn sâu hơn qua hai câu thơ trên, Hữu Thỉnh cũng muốn nói lên sức mạnh của dân tộc Việt Nam thật kiên cường và bất khuất, thật dũng cảm và mạnh mẽ chống lại bọn giặc ngoài xâm để gửi trọn niềm tin yêu đến Tổ quốc, quê hương và bảo vệ bờ cỏi nước nhà.Từ bao nỗi suy tư của mình, Hữu Thỉnh đã góp phần làm cho cả bài thơ và khổ thơ cuối thêm nhiều ý nghĩa sâu sắc, in dấu trong lòng người đọc một ấn tượng khó phai mờ về một mùa thu tha thiết, nồng hậu và cả mùa hạ sôi động của dĩ vãng nữa. Cũng chính vì lẽ đó, mà ta cảm thấy yêu thiên nhiên hơn, yếu cái giao mùa và sự chuyển biến của đất trời trên quên hương mình, cũng như yêu vòng tuần hoàn máu chạy khắp cơ thể qua chính con tim này

Soạn văn - Đoàn thuyền đánh cá

CÂU 1. · Bố cục của bài thơ : bài thơ có 7 khổ. Có thể chia làm 3 phần : - Hai khổ đầu : cảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi lúc hoàng hôn và tâm trạng náo nức của người đi biển. - Bốn khổ tiếp : cảnh lao động của đoàn thuyền đánh cá giữa không gian biển trời ban đêm. - Khổ cuối : cảnh đoàn thuyền trở về lúc bình minh lên. · Thời gian và không gian : - Về thời gian : thời gian của bài thơ là nhịp tuần hoàn của vũ trụ từ lúc hoàng hôn cho đến lúc bình minh và cũng là thời gian hoạt động của đoàn thuyền đánh ca : từ lúc ra khơi - lúc lao động - lúc trở về. - Về không gian : không gian của bài thơ là không gian bao la rộng lớn với mặt trời, biển, sao, trăng, gió...đó cũng là không gian của người lao động. CÂU 2. · Hình ảnh người lao động được miêu tả trong không gian : biển cả bao la, rộng lớn. Khi mà màn đêm buông xuống, vũ trụ bắt đầu đi ngủ thì họ dong buồm ra khơi, dùng sức lao động của mình chiếm lĩnh tự nhiên, làm chủ biển cả. · Những biện pháp nghệ thuật tác giả đã dùng để làm nổi bật hình ảnh con người lao động trước thiên nhiên, vũ trụ: - Nghệ thuật so sánh và nhân hóa : tác giả đã miêu tả cảnh hoàng hôn bằng nghệ thuật so sánh và nghệ thuật nhân hóa đầy chất thơ và lãng mạn : + mặt trời xuống biển - hòn lửa. + sóng- cài then, đêm - sập cửa. Với việc sử dụng hình ảnh ấy, tác giả đã vẽ nên hình ảnh một buổi hoàng hôn vừa thơ mộng, vừa tráng lệ, huy hoàng. Người đọc liên tưởng đến hình ảnh vũ trụ là một ngôi nhà lớn, khi ánh sáng cuối cùng dần tắt, màn đêm phủ xuống như một cánh cửa khổng lồ, tất cả đều đi vào nghỉ ngơi. Lúc này, những người dân chài " lại" ra khơi, dùng sức khỏe, niềm hăng say lao động của mình để chiếm lĩnh biển khơi, làm chủ thiên nhiên, vũ trụ. - Giọng thơ tự nhiên, hào hứng, sôi nổi với những hình ảnh thơ khỏe khoắn, sự đối lập trong sử dụng thanh trắc - thanh bằng : gợi cho người đọc về sự liên tưởng phong phú, sâu sắc. Đồng thời, khắc họa khí thế ra khơi sôi nổi, hào hứng, với mong muốn đánh bắt được nhiều cá. Những điều đó đã khiến cho người đọc cảm nhận được không khí lao động của ngư dân, cảm nhận được tinh thần lao động hăng say với mong muốn xây dựng cuộc sống mới của họ. - Sử dụng các hình ảnh liệt kê, khoa trương, bút pháp lãng mạn kết hợp tả thực ( những khổ phần 2), giọng điệu và cách gieo vần có những biến hóa linh hoạt : Không những ca ngợi vẻ đẹp, sự giàu có của biển mà còn làm nổi bật lên hình ảnh lao động hăng say của người dân chài. CÂU 3. Bài thơ có những hình ảnh đặc sắc và nổi bật, thể hiện sự hòa hợp giữa con người với thiên nhiên : - Khổ 1 : cảnh mặt trời lặn được miêu tả đầy ấn tượng : Mặt trời xuống biển như hòn lửa Sóng đã cài then đêm sập cửa. Hình ảnh " mặt trời xuống biển" là một cảnh tượng kì lạ, chỉ có thể nhìn thấy từ một hòn đảo nào đó ngoài khơi, hay một con thuyền đnag dong buồm ra biển. Giữa bốn bề mênh mông nước, hình ảnh mặt trời lặn như hòn than cháy hồng đang vùi mình vào lòng biển. Khi tia nắng cuối cùng tắt, cũng là lúc màn đêm buông xuống. " Sóng cài then- Đêm sập cửa" đã khóa cổng ngôi nhà vũ trụ, tất cả chìm vào yên tĩnh, đi vào nghỉ ngơi. Đoàn thuyền đánh cá đã ra khơi trong thời điểm ấy : Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi Câu hát căng buồm cùng gió khơi. Hình ảnh " câu hát", " căng buồm", " gió khơi"bỗng hòa vào nhau trong một câu thơ. Người đánh cá căng buồm và cất lên câu hát, nhà thơ có cảm giác như những câu hát ấy đã làm căng cánh buồm của con thuyền đang chuẩn bị ra biển. Câu hát mang theo niềm vui, phấn khởi của người lao động trở thành sức mạnh cụ thể cùng với gió biển, làm tăng sức mạnh, tăng không khí phấn khởi để con thuyền lướt sóng ra khơi, để người dân chài bắt đầu ngày lao động mới. - Khổ cuối : hình ảnh đoàn thuyền đánh cá trở về lúc bình minh. ( các bạn tự phân tích nhé. · Bút pháp xây dựng hình ảnh trong bài thơ : vừa tả thực vừa lãng mạn, bay bổng, khoa trương. Những hình ảnh được miêu tả trong bài thơ chân thực mà sinh động, đầy đẹp đẽ, huy hoàng và giàu sức sống. CÂU 4. · Bài thơ có bốn lần sử dụng từ " hát", cả bài thơ như một khúc ca. Đó là bài hát của những người dân chài, bài hát ca ngợi thiên nhiên, ca ngợi tinh thần lao động hăng say sôi nổi. - Ở khổ 1 : câu hát căng buồm : là câu hát mang theo sự tươi vui, phấn chấn của người dân chài khi bắt đầu một ngày lao động mới.Câu hát căng buồm đã gợi tả sinh động, tràn đầy sức sống, tràn đầy khí thế của đoàn ngư dân. - Ở khổ 2 : câu hát của người lao động mang theo một niềm mong mỏi tha thiết, vừa hiện thực, vừa lãng mạn : đàn cá đến " dệt" nên tấm lưới của người dân chài. - Ở khổ 4 : Cùng với việc lao động hăng say, người dân chài đã cất tiếng hát lạc quan với niềm tự hào, tự tin, yêu nghề, yêu lao động và mang ơn biển ân tình nuôi sống con người : " ta hát bài ca...tự buổi nào". - Ở khổ cuối : là câu hát căng buồm " với gió khơi" của người dân chài. Câu hát vui mừng sau một đêm lao động vất vả, trở về với đất liền. Là câu hát của niềm vui bắt được nhiều cá,niềm vui của ngày lao động hiệu quả. =>Tiếng hát xuất hiện trong toàn bài thơ : từ lúc ra khơi - khi đánh cá - lúc trở về. Chữ " hát" xuất hiện bốn lần trong bài thơ, đem lại âm điệu tươi vui, khỏe khoắn của một khúc ca lao động đầy hăng hái, say mê. · Âm hưởng, giọng điệu của bài thơ : Âm điệu tươi vui, hào hứng, say mệ, sôi nổi. Góp phần làm nên âm hưởng ấy là các yếu tố vần, nhịp... - Các câu thơ phần lớn ngắt nhịp ¾ cổ điển, có những câu phá cách ngắt nhịp 2/5 ( " Hát rằng : cá bạc biển Đông lặng; " Đêm thở : sao lùa nước Hạ Long&hellip tạo âm hưởng vừa chắc khỏe vừa sang trọng, dồn dập mà tươi vui. - Cách gieo vần có nhiều biến hóa linh hoạt : + khổ 1, khổ 6 gieo vần liền : 1 cặp vần trắc nối tiếp một cặp vần bằng. +khổ 2, khổ 4 gieo vần cách : hai vần trắc xen giữa hai vần bằng. + khổ 3, khổ 5 gieo theo cách hiệp vần của thơ Đường ( 3 vần bằng). + Khổ cuối gieo cả 4 câu cùng 1 vần : 3 vần bằng - 1 vần trắc. =>Cách gieo vần linh hoạt tạo âm điệu sôi nổi, phơi phới. Các vần trắc tạp âm điệu vang dội, chắc khỏe. Các vần bằng tạo âm điệu bay bổng, vang xa. CÂU 5. - Theo hành trình ra khơi của đoàn thuyền đánh cá, tác giả đã khắc họa nhiều hình ảnh đẹp về vũ trụ và người lao động, thể hiện sự hài hòa giữa thiên nhiên và con người, qua đó tác giả ca ngợi vẻ đẹp của thiên nhiên đất nước, đồng thời bộc lộ niềm vui, niềm tự hào của tác giả đối với cuộc sống, với những con người lao động trong công cuộc xây dựng đất nước.

Soạn văn - Bếp lửa của Bằng Việt

Câu 1. · Bài thơ là lời người cháu nơi xa nhớ về bà bà những kỉ niệm với bà, nói lên lòng kính yêu và những suy ngẫm về bà. · Bố cục : bài thơ có 4 phần : - Phần 1 ( 3 dòng đầu) : hình ảnh bếp lửa khơi nguồn cho dòng cảm xúc hồi tưởng về bà. - Phần 2 ( từ " lên bốn tuổi"... "niềm tin dai dẳng&rdquo : Những kỉ niệm tuổi thơ và hình ảnh người bà gắn liền với hình ảnh bếp lửa trong hồi tưởng của cháu. - Phần 3 ( từ " lận đận đời bà"...đến " thiêng liêng bếp lửa&rdquo : suy ngẫm về bà và cuộc đời bà. - Phần 4 : còn lại. hình ảnh bà và bếp lửa sống mãi trong tâm hồn cháu. Câu 2. · Trong tưởng tượng của người cháu, những kỉ niệm giữa bà và cháu được gợi lại : đó là những kỉ niệm thời thơ ấu : - Kỉ niệm về một tuổi thơ nhọc nhằn gian khổ : + 4 tuổi cháu đã " quen mùi khói", phải sớm lo toan. + Tuổi thơ của " cháu" có bóng đen của nạn đói ghê rợn năm 1945, có cái gian khổ chung của thời kháng chiến chống Pháp : giặc tàn phá xóm làng, bố đi đánh xe, mẹ cùng cha công tác bận không về.... + Cháu sống và lớn lên trọng sự yêu thương, nuôi nấng, chăm bẵm, dạy bảo của bà : " cháu ở cùng bà...bà chăm cháu học". +Kỉ niệm tuổi thơ của cháu gắn liền với bếp lửa, cho nên nhớ về tuổi thơ, nhân vật trữ tình "chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu - Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay". => cảm xúc chân thực và xúc động. + cháu nhớ về những sự chăm chút yêu thương, dạy bảo của bà : bà hay kể chuyện những ngày ở Huế, bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học, bà dặn cháu đinh ninh ...=> tình bà càng ấm áp bên bếp lửa. + Kỉ niệm về tiếng chim tu hú tuổi thơ : cháu tha thiết nhớ " tu hú kêu trên những cánh đồng xa", trong lời kể chuyện của bà, có cả " tiếng tu hú sao mà tha thiết thế". Tâm hồn trẻ thơ của cháu mong mỏi : Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà Kê chi hoài trên những cánh đồng xa ! · Trong bài thơ, khi tác giả kể về những kỉ niệm tuổi thơ của mình, đã vừa kể, vừa miêu tả lại tuổi thơ đầy nhọc nhằn gian khổ, qua đó, bộc lộ tình cảm thương yêu, mong mỏi của cháu với bà. Những tình cảm của tác giả khi nhớ về tuổi thơ, nhớ về bà, nhớ về quê hương vừa chân thực lại vừa xúc động. Sự kết hợp đó đã khiến cho hình ảnh của người bà hiện lên thật gần gũi, những mảng kí ức tuổi thơ hiện về sống động và chân thành, giản dị. Câu 3. · Phân tích hình ảnh bếp lửa ( ý chính) : - Bếp lửa là hình ảnh đầu tiên của bài thơ, cũng là hình ảnh khơi gợi cảm xúc cho tác giả ở toàn bài. Ba tiếng " một bếp lửa" trở thành điệp khúc mở đầu bài thơ với giọng điệu sâu lắng, hình ảnh thân thiết trong mọi gia đình. - Hình ảnh bếp lửa đánh thức dòng cảm xúc tự nhiên của cháu về bà : cháu nhớ về những kỉ niệm, những sự chăm chút, yêu thương, dạy dỗ của bà. - Hình ảnh bếp lửa gợi cho cháu những suy ngẫm, những yêu thương về cuộc đời người bà chịu thương chịu khó. - Từ hình ảnh bếp lửa của bà, đã phát triển thành hình ảnh ngọn lửa : đó là ngọn lửa của niềm tin, của tình yêu thương, ngọn lửa của sức sống lặng thầm mà mãnh liệt. · Hình ảnh bếp lửa được nhắc đến 6 lần.Khi nhắc đến bếp lửa, cháu nhớ ngay đến bà, và khi nhắc đến bà, cháu nhớ ngay đến bếp lửa, bởi lẽ, từ thơ ấu, hình ảnh bếp lửa và bà đã gắn kết với nhau. Hình ảnh của bà luôn gắn liền với bếp lửa. Trong những kỉ niệm tuổi thơ, hình ảnh người bà và hình ảnh bếp lửa là hai thứ in dấu sâu đậm nhất trong lòng tác gỉa, hai hình ảnh gắn liền nhau, gần gũi, không tách rời. Hình ảnh bếp lửa quen thuộc, gắn liền với mọi hoạt động của bà, gắn liền với tình yêu thương mà bà dành cho cháu. · Hình ảnh bếp lửa, là hình ảnh chủ đạo, khơi gợi dòng cảm xúc của cháu về bà, rồi từ đó phát triển xuyên suốt toàn bộ mạch thơ. Từ hình ảnh bếp lửa yêu thương, tác giả đã đem nó phát triển thành hình ảnh ngọn lửa của niềm tin, của sức sống dai dẳng, mãnh liệt. · Tác giả viết " Ôi kì lạ và thiêng liêng - bếp lửa !" : từ hình ảnh bếp lửa bình dị và quen thuộc, người cháu nhận ra bao điều kì diệu, thiêng liêng : đó là ngọn lửa từ bàn tay bà với tình yêu thương trìu mến đã nuôi lớn tuổi thơ cháu, đã " nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ". Trong cảnh côi cút, bà lặng lẽ hi sinh cho con cháu và cho tất cả mọi người. Từ bếp lửa của bà, cháu nhận ra cả " một niềm tin" dai dẳng vào tương lai, vào ngày mai đất nước, cháu hiểu được linh hồn của một dân tộc vất vả, gian lao mà tình nghĩa : "Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi Nhóm nồi cơm gạo mới sẻ chung vui". Câu 4. · Ở hai câu trên, tác giả dùng hình ảnh " ngọn lửa" chứ không nhắc lại hình ảnh " bếp lửa", bởi lẽ, từ những thứ mà bếp lửa mang lại, theo mạch cảm xúc đã phát triển thành hình ảnh " ngọn lửa" bất diệt, cháy mãi, dai dẳng. Ngọn lửa chính là trái tim, là tấm lòng, là tâm hồn bà như bao người VN. Một niềm tin bất diệt lạ lùng. Chính đức tin của bà được ấp ủ, rồi truyền sang cho con cháu như truyền lửa vào thế hệ sau. Một ngọn lửa luôn bùng cháy trong lòng bà và cháu, là ngọn lửa hi vọng của ngày mai thanh bình. Câu 5. Trong bài thơ, tình cảm của bà cháu được thể hiện bình dị, gần gũi và rất chân thành. Đó là tình yêu thương của bà và cháu cũng như cháu đối với bà, sự kính trọng, sự nhung nhớ của người cháu với bà, với quê hương. Bên cạnh tình bà cháu thân thương, giản dị, còn là tình yêu quê hương, đất nước. Là niềm tin bất diệt về tương lai tươi sáng của cả dân tộc. Khi cháu " đã đi xa", đã có " khói trăm tàu", có " lửa trăm nhà", có " niềm vui trăm ngả", là niềm vui của quê hương, của đất nước, nhưng cháu vẫn không quên được tình yêu thương của bà, vẫn nhớ về bếp lửa với hình ảnh người bà tần tảo sớm hôm, cuộc sống khó khăn nhưng vẫn đầy niềm tin vào cuộc sống.

Soạn văn bài Bài ca ngắn đi trên bãi cát

Câu 1: Đường đi trên cát- biểu tượng cho đường đời - Yếu tố tả thực : + Bãi cát : điệp ngữ + Mờ mịt +Núi muôn lớp + Sóng muôn đợt + một sa mạc cát mênh mông vô tận, bãi cát lại bãi cát + một người đi đến mặt trời lặn vẫn chưa thôi, vừa đi vừa lệ tuôn đầy. => + Hình ảnh sa mạc cát tượng trưng cho đường đời xa xôi mờ mịt, đầy gian lao thử thách. Người đi trên bãi cát tượng trưng cho người đi tìm chân lí trên đường đời + con người nhỏ bé giữa bãi cát mênh mông rộng dài => hình ảnh bi tráng + Bãi cát là con đường khó khăn và con người phải vượt qua để đến với danh lợi. Nhưng người đi trên bãi cát vẫn tất tả bước vì danh lợi, vì cái bả công danh đã lôi kéo con người, làm con người mê muội. Câu 2: " không học được ông tiên phép ngủ Trèo non lội suối giận không nguôi" => Sự chán nản của tác giả vì tự mình phải hành hạ thân xác mình trên con đường theo đuổi công danh. Bốn câu tiếp theo, tác giả khái quát sâu sắc con đường danh lợi với sự cám dỗ ghê gớm của cái bả công danh đối với con người.Nhà thơ tự hỏi mình và mọi người rồi tự trả lời bằng hình ảnh nghệ thuật " người say vô số, tỉnh bao người". => ta thấy được sự mê muội của con người trong cuộc đời. có rất nhiều người đã vướng vào cái bả vinh hoa, và chỉ có rất ít người còn tỉnh táo trước men rượu công danh. Câu 3: Tâm trạng của lữ khách : chán nản ( 6 câu đầu), bế tắc ( 4 câu cuối). ð Sự vô nghĩa của chế độ khoa cử làm ông muốn thoát ra khỏi chúng. - Câu hỏi ở câu thơ cuối : -> lời nhắc nhở , thúc giục tìm kiếm lối thoát, tìm kiếm một đường đi mới, thoát khỏi bãi cát dài càng đi càng lún. => tư tưởng rộng lớn, sâu sắc. Câu 4 : điểm độc đáo của bài thơ là nhịp điệu mang tính hình tượng rất rõ.Những câu thơ năm chữ với nhịp 2/3 mô phỏng những bước đi khó nhọc trên bãi cát. Những lúc dừng lại suy nghĩ, câu thơ kéo dài ra với số lượng từ ngữ lớn hơn, nhịp thơ cũng biến hóa phù hợp.

Phân tích tác phẩm Chiếc lược ngà của nhà văn Nguyễn Quang Sáng

Có những câu chuyện dù phải đọc nhiều lần ta vẫn không thể nhớ,. Lại có những câu chuyện dù chỉ đọc một lần ta vẫn không thể quên. Có những hạnh phúc muộn màng và ngắn ngủi khiến ta phải trào nước mắt. Có những tình cảm nồng ấm và thiêng liêng mà ta chỉ cảm nhận được trong tổ ấm gia đình... Tất cả những ấn tượng ấy đều có từ truyện ngắn Chiếc lược ngà củ nhà văn Nguyễn Quang Sáng. Một truyện ngắn dung dị nhưng gây xúc động lòng người trước tình cảm sâu nặng của cha con ông Sáu. Đặc biệt truyện còn làm ngời sáng vẻ đẹp cứng cỏi cùng tình yêu thương cha mãnh liệt của một em bé mới bảy tám tuổi. Trong đời sống tự nhiên, ai ai cũng thầm công nhận một điều rằng , tình cảm của con cái hình như thân thiết và gần gũi với mẹ hơn. CÒn với cha thì sao? Tình cha bao la và hy sinh vì con cái cũng không kém gì người mẹ, đôi khi còn mãnh liệt và sâu sắc hơn. Là một chiến sỹ cách mạng xa nhà đi thoát ly cách mạng từ khi đứa con đầu lòng còn chưa đầy tuổi, mãi đến khi hòa bình lập lại ông Sáu mới có dịp về thăm nhà. Non nao và hạnh phúc khôn tả khi nghĩ đến giây phút gặp con , ông Sáu lại thấy đau khổ và thất vọng hơn khi con không nhận cha. Cuộc gặp gỡ sau 8 năm xa cách là khởi đầu cho chuỗi những sự việc , thái độ, hành động thể hiện tình yêu thương cha mãnh liệt của Thu. Xa cách bao năm, Thu và cha chưa một lần gặp mặt, ông Sáu " chỉ thấy con qua tấm ảnh nhỏ luôn mang bên người", bé Thu chỉ biết mặt cha qua tấm hình chụp chung với má. Xa cha, Thu nhớ thương vô cùng và dường như hình ảnh người cha trong tấm ảnh đã in sâu vào trong trí nhớ của Thu, là hình ảnh đẹp nhất trong lòng Thu. Tám năm sau khi người cha trở về, chiến tranh đã làm ông có sư thay đổi lớn khiến Thu không thể nhận ra cha mình. Từ đằng xa thấy " một đứa bé độ tám tuổi, tóc cắt ngang vai, mặc quần đen, áo bông đỏ đang chơi nhà chòi" ông Sáu đoán biết là con , không chờ xuồng cập bến " anh nhún chân nhảy thót lên, xô chiếc xuồng tạt ra". Linh tính của người cha cho ông biết đấy là con mình, trái tim người cha hướng ông mau mau chạy về phía con để ôm lấy cái hình hài máu mủ mà ông hằng thương nhớ trong bao năm xa cách. " Anh vừa bước, vừa khom người đưa tay đón chờ con... giọng lặp bặp run run Ba đây con, ba đây con!" Những tưởng cha con ông sẽ ôm chầm lấy nhau trong khoảnh khắc sung sướng thì trớ trêu thay con bé không nhận ra ông, nó giật mình " tròn mắt nhìn...ngơ ngác, lạ lùng". Mặt Thu tái đi em kêu lên, bỏ chạy và cầu cứu " Má! Má". Với ông Sáu thái độ của Thu khiến ông hụt hẫng, đau đớn. Nhưng với Thu đây là phản ứng tâm lý tự nhiên. Bởi từ khi em lớn lên, ông Sáu đâu có ở bên cạnh, chưa bao giờ em được trông thấy cha bằng xương, bằng thịt. Hôm nay một người đàn ông lạ lẫm với " vết sẹo dài đỏ ửng, giật giật, trông rât dễ sợ" đột ngột xuất hiện tự xưng là cha, làm sao em không sợ hãi? Một nghịch lý trớ trêu, đau xót cho người cha, một sự ngỡ ngàng, lạ lẫm cho đứa con được Nguyễn Quang Sáng miêu tả thật sinh động, tài tình Những ngày sau đó, đáp lại tình cảm nồng nàn của cha, bé Thu lại càng tỏ ra sợ hãi, ngờ vực. Trong ba ngày phép ngắn ngủi, ông Sáu càng vỗ về, Thu càng lùi ra xa, ông càng chiều thương, nó càng lẩn tránh. Ông chỉ mong được nghe tiếng Ba mà sao khó khăn đến thế . Khi phải gọi ông Sáu ăn cơm, dẫu được mẹ nhắc nhở, Thu vẫn chỉ nói trổng " vô ăn cơm" hoặc " cơm chín rồi". Đặc biệt trong một tình huống tưởng chừng cô bé không thể ương bướng hơn được nữa vậy mà Thu vẫn quyết liệt. Đó là lúc nồi cơm sôi, một đứa bé không thể tự mình nhấc nồi để chắt nước. Tình thế đó cứ ngỡ rằng Thu sẽ ngoan ngoãn nhờ ba giúp. Nhưng không, ngay cả khi bác Ba mờ đường cho " Cháu phải gọi Ba chắt nước giùm con", phải nói như vậy", Thu vẫn không cất tiếng dẫu mấy lần em tỏ ra lo sợ bị mẹ đánh đòn nếu để cơm bị nhão. Bướng bình và bất cần, Thu tự mình làm một công việc nguy hiểm và quá sức. Nghĩa là nó không chịu thua, không chịu nhượng bộ. Song đỉnh điểm của sự ương bướng được thể hiện khi Thu " hất tung cái trứng cá to vàng" mà ông Sáu gắp cho nó. Bị đánh, nhưng Thu không khóc, lẳng lặng gắp lại cái trứng cá rồi bỏ sang nhà ngoại. Lúc cởi dây xuồng, nó còn cố ý khua dây xích " kêu rổn rảng" để tỏ ý bất bình, có lẽ nó muốn cho mọi người biết nó sắp đi để chạy ra dỗ dành. Một chuỗi những thái độ của Thu khiến ta có thể cho Thu là một cô bé bướng bỉnh, cứng đầu. Nhưng xét căn nguyên sâu xa, không thể coi đó là biểu hiện cửa sự ương ngạnh, cứng đầu, hỗn láo. Trong hoàn cảnh xa cách và trắc trở của chiến tranh, bé Thu còn quá nhỏ để hiểu được những tình thế khắc nghiệt éo le của cuộc sống , hơn nữa ba má bé Thu cũng không lường trước được sự việc để giải thích cho bé rõ. Trong suy nghĩ non nớt của em, ông Sáu có vết sẹo đáng sợ ấy sao chẳng giống hình ba chụp chung với má. Mà đã không phải là cha thì không thể gọi tiếng " ba". Điều đó chi phối toàn bộ suy nghĩ, hành động của em. Sự bướng bỉnh của Thu không thể hiểu là sự ương ngạnh của một đứa trẻ khó dạy mà là sự kiên định của một cô bé có lập trường yêu ghét phân minh. Trong thái độ cứng đầu ẩn chứa sự kiêu hãng dành cho người cha thân yêu.- người cha trong tấm hình chụp chung với má. Thế mới biết Thu là một cô bé có cá tính. Điều mà ở những đứa trẻ bày, tám tuổi thường không có. Đó cũng là tiền đề tạo phẩm chất gan dạ, dũng cảm của cô giao liên sau này. Tình yêu cha của Thu được thể hiện ngay trong chính hành động bướng bỉnh. Vì cha, Thu kiên quyết từ chối sự quan tâm của ông Sáu, thương cha nên bao nhiêu yêu thương kính trọng được em giữ gìn trong tiếng Ba trìu mến. Với em, ba là duy nhất, không ai có thể thay thế tình yêu ấy khiến em tỏ rõ thái độ căm ghét những gì em hoài nghi là sự xâm phạm đến hình ảnh người cha yêu quý. Đó là nét đẹp phẩm chất nơi Thu khiến ta khâm phục. Nhưng khi được ngoại giải thích rõ về nguyên nhân vết sẹo, thì sự nghi ngờ của em được giải tỏa" " Nghe bà kể, nó nằm im lăn lộn, thỉnh thoảng thở dài như người lớn" . Sự miêu tả nội tâm gian tiếp qua hành động cho thấy những tình cảm, cảm xúc đang trào dâng trong lòng em- yêu thương cha xen lẫn nỗi ân hận. Hôm sau trỏ về nhà, nhìn mọi người vây quanh cha, vẻ mặt Thu buồn rầu " Cái nhìn của nó không ngơ ngác, lạnh lùng , nó nhìn với vẻ nghĩ ngợi, sâu xa". Và khi bắt gặp ánh mắt của cha thì đôi mắt ấy như xôn xao. Cái " xôn xao" của đôi mắt như nói lên bao điều. Khi ông Sáu cất tiếng chào " Thôi ba đi nghe con" thì nỗi niềm trong nó bật tung thành tiếng " Ba.......a...a" Tiếng kêu của nó như xé, xé sự im lặng và xé cả ruột gan mọi người, nghe thật xót xa. Đó là tiếng "ba" mà nó cố đè nén trong bao nhiêu lâu nay , tiếng ba như vỡ tung từ nỗi lòng nó. Đọc truyện ta như thấy cách Thu bộc lộ tình cảm với cha thật xúc động, là người ngoài cuộc ta cũng không khỏi nhói lòng. Yêu thương cha vô cùng nên em quyết định lạnh lùng với ông Sáu. Thương cha nên em không thể dành tiếng " ba" để gọi người xa lạ. Thế nhưng khi biết ngọn nguồn vết sẹo, biết đích xác là ba rồi, tình cảm nơi em vỗ òa, tức tưởi. Cũng như bao đứa trẻ khác có cha trên đời, em mong được cha chăm chút, yêu thương. Nhưng bất hạnh thay, em xa cha từ bé, em đã trông ngóng biết bao ngày cha về nhưng chỉ tại vết sẹo, mà Thu đã để mất ba ngày quý giá, làm tổn thương tình cảm cha mình. Chính vì thế nên ta không lạ gì Thu " ôm chặt lấy cổ ba nó... dang cả hai chân rồi câu chặt lấy ba nó. Nó hôn ba cùng khắp...hôn cả vết thẹo dài bên má của ba nó nữa". Nếu như trước đây, Thu ghét ông Sáu bao nhiêu thì giờ đây tình cảm của em dành cho ông mãnh liệt bấy nhiêu. Ta nhận ra hai thái độ ấy tuy trái ngược này thực ra lại nhất quán trong sự phát triển tính cách- tính cách của cô bé dành trọn tất cả tình yêu cho người cha vô cùng kính mến. Có người cho rằng tác giả xây dựng hình tượng bé Thu hơi thái quá, song thiết nghĩ thái độ ngang ngạnh đó cũng vì xuất phát từ tình yêu thương cha mãnh liệt. Với sự am hiểu tâm lý trẻ thơ, ngòi bút miêu tả sinh động diễn biến tâm lý trẻ thơ của tác giả đã xây dựng nên một cô bé Thu cứng cỏi, mạnh mẽ, sâu sắc trong tình cảm. Tâm lý và hành động của Thu được miêu tả sinh động , sát với tâm lý lứa tuổi của em. Điểm nổi bật gợi sự xúc động của em là một tình cảm chân thành, mãnh liệt mà thánh thiện dành cho cha. Trong Chiếc lược ngà, tình cảm của ông Sáu dành cho con cũng mãnh liệt, sâu nặng không kém. Tình cảm ấy được tác giả thể hiện phần nào trong chuyến về thăm nhà và được miêu tả kỹ lưỡng hơn khi ông ở căn cứ kháng chiến. Sau khi chia tay với gia đình, nỗi day dứt ân hận ám ảnh ông Sáu nhiều ngày là việc là ông lỡ tay đánh con. Nhớ lời dặn tha thiết của con, ông nghĩ đến việc làm một chiếc lược ngà nhỏ xinh tặng con. Tìm được một khúc ngà voi, " anh hớt hải chạy về, tay cầm khúc ngà đưa lên khoe... mặt hớn hở như đứa trẻ được quà". " Những lúc rỗi, anh cưa từng chiếc răng lược, thận trọng, tỉ mỉ và cố công như người thợ bạc". Tại sao chiếc lược bằng ngà mà không bằng một vật liệu gì khác? Phải chăng là để thể hiện tình yêu thương của ông đối với con? Chiếc lược ngà ấy rất quý, phải như thế mới xứng đáng với đứa con gái bé bỏng của ông, với tình yêu ông dành cho nó. Từng chiếc răng lược dần hiện ra là từng niềm vui của ông. Bụi ngà rơi mỗi lúc một nhiều. Bao nhiêu bụi ngà rơi là bấy nhiêu tình cảm ông dành cho con. Trên sống lưng lược, ông còn gò lưng , tẩn mẩn khắc từng nét " Yêu nhớ tặng Thu con của ba". Bao trìu mến thân thương toát lên từ hai chữ " Yêu nhớ", bao nồng nàn , thấm đẫm nhớ nhung, yêu thương con của ông Sáu ẩn chứa trong những chữ " Thu con của ba". Cây lược ngà ấy chưa chải được mái tóc của con, nhưng nó gỡ rối được phần nào tâm trạng của anh." Có cây lược, ông càng mong được gặp con để trao tận tay cho nó nhưng éo le thay, chiến tranh đã vô tình cướp đi của ông giây phút vui mừng trao cho con cây lược. Giây phút cuối, tình cảm cha con trong ông vẫn da diết, trước lúc nhắm mắt, dòng suy tưởng của ông vẫn nhớ về con mình. TRút hơi thở cuối cùng, ông Sáu chỉ kịp gửi lại chiếc lược ngà cho đồng đội. Lần đầu tiên một người chiến sỹ trở thành một nghệ nhân sáng tạo tài tình dù chỉ sáng tạo một sản phẩm duy nhất Chiếc lược ngà. Người mất nhưng kỷ vật còn. Chiếc lược ngà là gạch nối giữa cái mất mát và sự tồn tại, nó vẫn còn mãi, là kết tinh của tình phụ tử mộc mạc, đơn sơ mà đằm thắm, kỳ diệu, là hiện hữu củatình cha con bất tử không bao giờ chết được. Bản thân là người Nam bộ, là người lính từng chiến đấu xa nhà nên hơn ai hết Nguyễn Quang Sáng hiểu được tình cảm gia đình đối với người lính sâu đậm biết chừng nào. Kết cấu truyện với nhiều tình huống bất ngờ đã làm nổi bật vẻ đẹp tính cách của các nhân vật, gây xúc động sâu sắc cho người đọc. Chuyện được ghi theo lời kể của một chiến sỹ cách mạng- người bạn thân thiết của ông Sáu, khiến chuyện càng trở nên đáng tin cậy, trung thực Truyện Chiếc lược ngà là bài ca đẹp về tình cha con. Trong hoàn cảnh éo le của chiến tranh, tình cảm thiêng liêng ấy càng cao đẹp và càng ngời sáng. Truyện không chỉ nói lên tình cảm cha con thắm thiết sâu nặng mà còn gợi cho ta suy nghĩ thấm thía về những éo le, đau thương, mất mát mà chiến tranh gieo rắc cho bao nhiêu con người, bao nhiêu gia đình. Ta càng thấm thía rằng tình cảm gia đình là sức mạnh , niềm tin để con người có thể vượt qua tất cả, ngay cả cái chết. Ta hiểu " Nếu trên đời có những nguồn vui chân chính và niềm hạnh phúc thật sự , thì nó sẽ nằm trong tổ ấm gia đình.

Đề bài: Anh chị hãy phân tích giá trị lịch sử và giá trị văn chương trong tác phẩm "Bản tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh"

I/ Mở bài : II/ Thân bài Nêu khái quát suy nghĩ của mình : _ Một tác phẩm văn học thường gắn với số phận của một cá nhân nào đó. Nhưng những áng thiên cổ hùng văn lại gắn liền với số phận của cả một dân tộc một quốc gia. Tuyên ngôn Độc lập của Hồ Chí Minh là một tác phẩm như thế. _ Sau 80 năm quất khởi đánh đổ ách thống trị của thực dân Pháp, nhân dân ta lại ca khúc khải hoàn : Độc lập tự do. Tác phẩm không chỉ ghi dấu một thời hào hùng của lịch sử dân tộc mà còn tác động mạnh mẽ đến tâm trí muôn triệu người đọc, người nghe _ Nên cho rằng " Tuyên ngôn Độc lập của Hồ Chí Minh không chỉ có giá trị lịch sử to lớn mà còn là một tác phẩm văn chương mẫu mực..." là rất chí lí ( đồng tình ) Phân tích và chứng minh làm sáng tỏ suy nghĩ trên 1/ Tuyên ngôn Độc lập của Hồ Chí Minh có giá trị lịch sử to lớn : a/ nó ra đời trong không khí và thời điểm trọng đại đối với vận mệnh của một dân tộc, lại được người con ú tú nhất của dân tộc ấy đại diện nói lên ý chí và khát vọng của đất nước mình - Sau bao nhiêu năm vùng lên phá bỏ xiềng xích nô lệ của thực dân Pháp, ngày 19/8/45, chính quyền ở Hà Nội đã về tay nhân dân. Và ngày 26/8 Hồ Chí Minh từ chiến khu Việt Bắc về tới Hà Nội. Tại căn nhà 48 Hàng Ngang nNgười soản thảo Tuyên ngôn Độc lập. Ngày 2/9/45, tại quảng trường Ba Đình Hà Nội, Người thay mặt Chính phủ lâm thời nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đọc bản Tuyên ngôn Độc lập trước 50 vạn quốc dân đồng bào. - Đó là áng văn mở nước của thời đại cách mạng vô sản, mở ra một kỉ nguyên mới cho dân tộc : kỉ nguyên độc lập tự do b/ Nó thực sự là một văn kiện lịch sử to lớn : - Khái quát đầy đủ, toàn diện về lịch sử Việt Nam của hơn 80 năm trước ngày Độc lập "...Hơn 80 năm nay, bọn thực dân Pháp lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái, đến cướp đất nước ta, áp bức đồng bào ta. Hành động của chúng trái hẳn với nhân đạo và chính nghĩa" - Chi tiết (thật ) cụ thể điển hình : "Trước ngày 9/3, biết bao lần Việt Minh đã kêu gọi người Pháp liên minh để chống Nhật. Bọn thực dân Pháp đã không đáp ứng, lại thẳng tay khủng bố Việt Minh hơn nữa. Yhậm chí đến khi thua chạy, chúng còn nhẫn tâm giết nốt số đông tù chính trị ở Yên Bái và Cao Bằng". - Hồ Chí Minh đã phân tích thế cuộc trong và ngoài nước một cách sắc sảo và dự báo những gì sẽ diễn ra sau đó Khi đặt bút viết tác phẩm này, đối tượng hướng tới của Bác không chỉ là nhân dân trong nước, nhân dân thế giới và công luận quốc tế mà còn là trùng vây đế quốc Anh, Pháp Mĩ và bè lũ phản độngTrung Hoa Quốc dân đảng - những kẻ đang tung ra trước dư luạn thế giới những luận điệu xảo trá... Bên cạnh nhiệm vụ tuyên bố độc lập, Bác còn lật tẩy bản chất xấu xa đê hèn và đập tan những luận điệu xảo trá nhằm xâm lược nước ta một lần nữa của thực dân Pháp. Trong phần mở đầu trang trọng của bản Tuyên ngôn Bác trích dẫn hai câu nói nổi tiếng trong hai bản tuyên ngôn nổi tiếng thế giới... nhằm cảnh tỉnh bọn có dã tâm xâm lược bằng chính lời răn dạy của tổ tiên cha ông chúng. Đó là sự mền dẻo của sách lược lạt mềm buộc chặt Với tầm nhìn của một nhà chiến lược Bác chỉ rõ cục diện chính trị mới "Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị. Từ nô lệ, "dân ta đã đánh đổ xiềng xích thực dân gần 100 năm nay để gây dựng lên nước Việt Nam độc lập", "dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỉ mà lập lên chế độ dân chủ cộng hòa". Để rồi giữa Ba Đình rực nắng, Người trịnh trọng tuyên bố "Nước Việt Nam có quyền được hưởng tự do và Độc lập, và thực sự đã trở thành một nước tự do và Độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy". Hai cuộc kháng chiến trường kì của dân tộc ta sau đó đã được Bác dự báo trước từ thời điểm ấy. Và Bác cũng đã chuẩn bị tâm thê cho dân tộc ta từ buổi trưa lịch sử ấy. 2/ Tuyên ngôn Độc lập còn là một tác phẩm văn chương mẫu mực mà ở tác phẩm ta cảm nhận được sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất chính luận với chất văn chương mang tư tưởng lớn lao của thời đại mới. a/ Tuyên ngôn Độc lập là bài văn chính luận mẫu mực : - Sức thuyết phục mạnh mẽ được toát ra từ lập luận chặt chẽ, lí lẽ đanh thép tác động mạnh đến lí trí người đọc người nghe Nhiệm vụ của phần mở đầu của một bản tuyên ngôn là nêu nguyên lí chung làm cơ sở tư tưởng cho toàn bài. Để xác định cơ sở pháp lí cho bản tuyên ngôn của mình Bác đã mở đầu bằng cách trích dẫn 2 câu nói nổi tiếng trong hai bản tuyên ngôn nổi tiếng thế giới Bản Tuyên ngôn Độc Lập 1776 của Mĩ viết :"Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc"; Bản tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của cách mạng Pháp 1791 cũng nói : "Người ta sinh ra có quyền tự do và bình đẳng về quyền lợi. Và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi". ->Bằng cách ấy, Bác không chỉ đặt cơ sở tư tưởng vững chắc cho bản Tuyên ngôn Độc lập mà còn khéo léo và kiên quyết khẳng định quyền độc lập tự do của dân tộc ta bằng chính những lời lẽ của người Pháp người Mĩ, dùng gậy ông đập lưng ông nhằm rung lên hôi chuông cảnh báo ngăn chặn âm mưu xâm lược của chúng ->Bằng cách mở đầu như thế, Bác đã đặt ba cuộc cách mạng ngang nhau, ba nền độc lập ngang nhau. Bác đã nâng tầm vóc văn hóa Việt Nam sánh ngang với ánh sáng văn minh thế giới Nét sáng tạo mới mẻ trong ngòi bút chính luận Hồ Chí Minh không chỉ ở việc trích dẫn trong 2 bản tuyên ngôn nổi tiếng mà Bác còn suy rộng phát triển vấn dề lên thành một tư tưởng mới : + Những gì tuyên ngôn của người Pháp người Mĩ đưa ra đều đáp ứng cho nhu cầu thuộc về cá nhân, về cái tôi của mỗi người, không có bóng dáng của lập trường dân tộc + Tài lập luận của Bác là ở chỗ Bác cho rằng mọi người là tất cả con người, tất cả con người làm thành dân tộc. Do đó mọi người có thể thay thế bằng dân tộc : "Từ lời nói bất hủ ấy suy rộng ra có nghĩa là : Tất cả các dân tộc trên thế giới sinh ra đều có quyền bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do". Óc suy luận của nhà chính trị Hồ Chí Minh quả là sáng suốt và lôgic, biết cách dùng từ và dùng đúng chỗ. Từ quyền con người Bác đã vận dụng thiết thực và sáng tạo vào quyền độc lập dân tộc, từ khái niệm con người cá nhân sang khái niệm dân tộc một cách tổng quát và đầy thuyết phục. "Những lẽ phải không ai chối cãi" của phần mở đầu được dùng như một tiền đề, một xuất phát điểm chắc chắn để dẫn tới cái đích cuối cùng : Bác trịnh trọng tuyên bố trước quốc dân đồng bào và toàn thế giới về nền độc lập của dân tộc Và trong phân tuyên bố này cái tài lập luận của nhà chính trị Hồ Chí Minh là ở chỗ : + Lấy lời nói của các nước đồng minh để khéo léo thắt buộc các nước Đông minh : "Chúng tôi tin rằng các nước đồng minh đã công nhân nguyên tắc dân tộc bình đẳng quyết không thể không công nhận độc lập của nhân dân Việt Nam. Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe đồng minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do, dân tộc đó phải được độc lập" "Tin" là tỏ vẻ tôn trọng là giả định phẩm chất tốt đẹp của họ. Đó là cách Bác buộc họ không thể không công nhận quyền độc lập của nhân dân Việt Nam. Bác đã lùi một bước "tin" để tiến thêm hai bước dài "quyết không thể không công nhận...", hai lần phủ định "không" để dẫn tới sự khẳng định mạnh mẽ "quyền độc lập của dân tộc Việt Nam" Một bài văn chính luận chặt chẽ không thể thiếu - Hệ thống luận điểm, luận chứng chặt chẽ toàn diện, tiêu biểu và đầy ấn tượng Để bóc trần bộ mặt giả danh khai hóa bảo hộ của thực dân Pháp, để chứng minh chúng là kẻ làm trái nguyên lí, Bác đã + Khái quát hai loại tội ác về chính trị ... Về kinh tế ... ->Với ngòi bút hiện thực sắc sảo, Bác không chỉ tái hiện sinh động chân dung tên khổng lồ thực dân Pháp với bàn tay sắt bóp chết một sinh vật nhỏ bé mà còn xé toang chiêu bài khai hóa bảo hộ giả dối bịp bợp bấy lâu nay của chúng Không chỉ khái quát hai loại tội ác trên, Bác còn : + Vạch trần bộ mặt hèn nhát và phản bội của chúng "..." . Quì gối đầu hàng mở cửa rước Nhật- bán nước ta 2 lần cho Nhật . Chúng quang thêm một ách lên đầu lên cổ nhân dân Việt Nan, kết quả là 2 triệu người chết đói . Chúng biến Việt minh thành kẻ thù chính và thẳng tay khủng bố Đối lập với cái dã man ti tiện của chúng là Nhân dân Việt Nam - những người làm đúng nguyên lí Đối với những kẻ bàn tay còn vấy máu + Việt minh vẫn đối xử nhân đạo "giúp cho nhiều người Pháp chạy qua biên thùy, lại cứu cho nhiều người Pháp ra khỏi nhà giam Nhật và bảo vệ tính mạng tài sản cho họ". ->Đến đây hình ảnh thực dân Pháp hoàn toàn nhỏ bé yếu đuối đáng thương. Ta hiện ra ở thể đối lập : Nhân hậu, anh hùng vị tha cao thượng -> Bằng thế đối lập ấy Bác khẳng định trước công luận quốc tế : chính thực dân Pháp là những kẻ làm trái nguyên lí đi ngược lại truyền thống văn hóa của cha ông chúng và của nhân loại, nhân dân Việt Nam là những người làm đúng nguyên lí. Vậy thì ai sẽ bảo hộ ai Không những tạo ra thế đối lập giữa ta và địch, Bác còn + Khẳng định sự thật lịch sử . Từ mùa thu 1940 nước ta trở thành thuộc địa của Nhật chứ không phải là thuộc địa của Pháp . Dân ta vùng lên giành chính quyền từ tay Nhật chứ không phải từ tay Pháp Phá chạy Nhật hàng vua Bảo Đại thoái vị -> Về lý một vật đã bán cho người khác tất thuộc quyền sở hữu của người đó. Ta lấy lại vật đã mất từ tay Nhật, như thế về mọi mặt, Pháp không có quan hệ gì với Việt Nam b/ Chất văn chương của Tuyên ngôn Độc lập cũng tác động rất lớn đến người đọc, người nghe - Bác xây dựng thực dân Pháp và dân tộc Việt Nam thành hai con người có thể hình dung diện mạo cốt cách và đối kháng nhau. Đó là hai hình tượng mang đầy tính thẩm mĩ của văn chương - Khi tố cáo tội ác thực dân Pháp, từng câu từng chữ bên cạnh thuật ngữ chính trị, còn ám ảnh nhức nhối tâm can người đọc bợi sức mạnh nghệ thuật của văn chương Các đoạn văn, câu văn được mở đầu bằng hàng loạt từ "chúng" gắn với hành động tàn bạo... Cách nói trùng lặp ấy tạo cho đoạn văn giọng điệu liên hoàn không chỉ thể hiện tội ác chồng chất mãi không thôi của kẻ thù mà còn là những nhát búa đập thẳng vào lớp vỏ bọc mĩ miều của thực dân Pháp Bên cạnh đó tác giả còn Sử dụng những điệp từ, điệp ngữ, trạng từ có sức nặng miêu tả bản chất của sự việc Hình thức đối lập kết hợp cách nói giàu hình ảnh làm cho từng câu từng chữ như dồn nén bao căm giận bao cảm xúc -> Cảm xúc hòa quyện với lí trí tạo lên sức mạnh chiến đấu sắc sảo trong văn phong chính luận Hồ Chí Minh - Để nêu bật chân dung tên khổng lồ Pháp đang bị teo tóp co quắp run sợ, Bác đã dùng nhiều động từ miêu tả : Quì gối, đầu hàng, mở cửa rước Nhật, bỏ chạy... Dùng từ nhấn mạnh cái ti tiện cái dã man của chúng : thậm chí, nhẫn tâm, giết nốt, số đông... - Khi đập lại luận điệu xảo trá của thực dân Pháp rằng Đông dương là thuộc địa của chúng, Bác đã dùng điệp ngữ , lặp cú pháp "sự thật là...chứ không phải". Cách nói trùng lặp ấy khẳng định mạnh mẽ chiến thắng của ta và phủ nhận dắt khoát mọi sự bắt mối ảo tưởng về chủ quyền của Pháp trên đất Việt Nam - Tuyên bố với nhân dân thế giới về việc thành lập của một nhà nước mới, tác giả đã đanh thép và triệt để : "chúng tôi - lâm thời chính phủ của nước Việt Nam mới, đại biểu cho toàn dân Việt Nam tuyên bố thoát li hẳn quan hệ với Pháp, xóa bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã kí về nước Việt Nam, xóa bỏ tất mọi đặc quyền của Pháp trên đất Việt Nam". Những cụm từ "thoát li hẳn", "xóa bỏ hết", "xóa bỏ tất" như những nhát gươm chém sắc chém thẳng vào những dây dợ còn dính líu của thực dân Pháp, phủ nhận tuyệt đối mọi quan hệ lệ thuộc của Pháp và Việt Nam Bác còn sử dụng những câu văn có kết cấu song song : "Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe đồng minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do, dân tộc đó phải được độc lập"àTao điệp khúc âm vang hào hùng. Bản tuyên ngôn kết thúc băng nhưng câu móc xích trùng điệp nêu bật ý chí khát vọng độc lập tự do của dân tộc Việt Nam : "Nước Việt Nam có quyền được hưởng tự do độc lập và thực sự đã là một nước tự do độc lập.Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy" Lời văn không khô khan mà trũ tình đanh thép. Mỗi từ mỗi câu đều chứa đựng trong đó sức nặng tinh thần của cả một dân tộc anh hùng quyết hi sinh để giữ độc lập tự do. Cụm từ độc lập tự do được lặp đi lặp lại ba lần như khắc sâu vào muôn triệu người Việt Nam, như tiếng kèn xung trận vang lên mạnh mẽ hào hùng. Lời tuyên bố mở nước cũng là lời thề sắt đá vừa thiêng liêng vừa khích lệ nhân dân ta vừa là lời cảnh báo đối với kẻ thù. Tác phẩm kết thúc những cũng là mở đầu cho một thời kì đấu tranh giữ vững chủ quyền độc lập tự do của dân tộc. III/ Kết luận

Phân tích bài thơ Cảnh ngày hè để thấy được vẻ đẹp tâm hồn Nguyễn Trãi

Nguyễn Trãi (1380 - 1442), vị anh hùng dân tộc, "tấm lòng sáng tựa sao Khuê" (lời vua Lê Thánh Tông) dù trong bất kì hoàn cảnh nào cũng không nguôi tâm nguyện hướng về dân về nước. Ngay cả khi bị nghi kị, phải lui về quê ngoại Côn Sơn, ông vần bộc bạch nỗi lòng tha thiết cháy bỏng trong cuộc Sống tưởng như chỉ biết vui vầy cùng mây núi cỏ cây. Nỗi lòng ấy bộc lộ rõ nét trong chùm thơ 61 bài Bảo kính cảnh giới. Đặc biệt, bài thơ số 43 chan chứa bao khát vọng hướng đến cuộc đời, nhân dân. Bảo kính cảnh giới (Gương báu răn mình) lấy những bài học từ thiên nhiên vĩ đại để nhà thơ soi chiếu lòng mình. Ta không chỉ gặp tấm lòng yêu thiên nhiên của một nghệ sĩ lớn mà còn thấu hiểu tâm sự cua người anh hùng luôn canh cánh bên lòng nỗi niềm "ưu quốc ái dân". Suy ngầm và cảm xúc của nhà thơ giúp chúng ta hình dung một nhân cách lớn. Bài thơ bắt đầu bằng hoàn cảnh hưởng nhàn bất đắc dĩ: Rồi hóng mát thuở ngày trường. Nhịp thơ thật lạ lùng như kéo dài cảm giác của một ngày "ăn không ngồi rồi": tạo điểm nhấn ở một nhịp đầu tiên, sau đó là năm chữ nối thành một hơi thơ như tiếng thở dài. Rò ràng nhà thơ nói về việc hóng mát mà không hề đem lại cảm nhận nhàn tản thật sự. Hai chừ ngày trường lại hiện ra bao nỗi chán chường của một ngày dài vô vị. Hưởng nhàn mà không hề thư thái! Có thể đó sè là khởi nguồn cho bao nổi bực dọc trút ra của con người bất đắc chí. Thế nhưng, tất cả tâm tư đà được nén lại khi nhà thơ đối diện với một thiên nhiên mành liệt đầy sức sống: Hoè lục đùn đùn tán rợp giương Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ Hồng liên trì đã tiễn mùi hương. Ba câu thơ đem lại một bức tranh thiên nhiên nhiều màu sắc, cùng những hình ảnh đặc trưng của không gian mùa hè. Trước hết, đó là hoè buông sắc lục như một chiếc lọng khổng lồ bao trùm lên cảnh vật, tạo cảm giác về một không gian xanh. Cái nhìn thiên nhiên của Nguyễn Trải luôn cósức bao quát, vừa gợi sức sống của không gian trong động từ "đùn đùn" vừa gợi cảm giác phóng khoáng trong một chữ "rợp". Tầm nhìn trải từ gần ra xa, theo quy luật đăng đối ở hai câu tả thực, khéo léo đan cài sắc đỏ của thạch lựu trước hiên nhà cùng sắc hồng của ao sen. Câu trên tả sắc, câu dưới gợi hương. Thiên nhiên ấy cũng chứa chan bao cảm xúc, lúc dịu nhẹ lan tòa lúc bừng bừng phun trào. Để rồi cuối cùng đọng lại cảm giác man mác tiếc nhớ làn hương thanh thoát của sen hồng lúc cuối hè. Phải là một người có tâm hồn tinh tế mới cùng một lúc diễn tả được nhiều cảm giác trong chỉ vài ba câu thơ cô đọng. Giữa khung cảnh thiên nhiên ấy, nhà thơ dường như cũng nguôi ngoai bao nỗi niềm bực dọc, để lòng mình hòa cùng thiên nhiên đầy sức sống. Không chỉ nhìn bằng mắt mà Nguyễn Trãi còn trải lòng lắng nghe những thanh âm muônvẻ của thiên nhiên: Lao xao chợ cá làng ngư phủ Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương. Có một sự chuyển đổi cảm xúc trong cách lắng nghe những âm thanh của cuộc sống. Giờ đây, những thanh âm lại được cảm nhận từ xa đến gần, từ "lao xao" đến "dắng dỏi". Thiên nhiên không hề tĩnh lặng u trầm trong thời điểm chiều buông mà trái lại rất sôi động và gần gũi với tấm lòng thiết tha yêu sự sống của nhà thơ. "Lao xao" là âm thanh gợi rõ cuộc sống thanh bình của những người dân chài, cảnh mua bán tấp nập mà khòng quá ồn ào để khuấy động không gian hương nhàn của nhà thơ. Dường như Nguyên Trãi đã chủ động hướng lòng mình về với chợ cá, làng ngư phú để thấy bản thân không cách xa với đời thường. Âm vang cuộc sống thực ấy tạo thành môi dây liên hệ giữa nhà thơ với nhân dân, mang lại niềm vui xôn xao trong một buổi chiều dề tạo cho nhà thơ nỗi buồn. Cấu trúc đăng đồi đã tạo nên sự hòa điệu giữa con người với thiên nhiên trong sự cân xứng làng ngư phủ - bóng tịch dương mang đậm sắc thái trang trọng cổ điển. Nghệ thuật tương phản tạo nên một cảm hứng hết sức mới mẻ trong thơ Nguyễn Trãi khi ấn tượng ám ảnh nhà thơ không phải ánh tịch dương ảm đạm mà lại là âm thanh dắng dỏi cầm ve. Sự liên tưởng bất ngờ và độc đáo này đã chứng tỏ rõ phẩm chất nghệ sĩ của Nguyễn Trãi. Tiếng ve đặc trưng của mùa hè đến cùng Nguyễn Trãi lại như một bản đàn mạnh mẽ, rạo rực hối hả nhịp sống căng tràn của thiên nhiên. Bức tranh thiên nhiên sống động ấy đã hàm chứa một nội dung thông điệp thẩm mỹ đánh động tâm tư của nhà thơ. Bản thân ông có muốn lánh đời thoát tục, ngắm ánh tịch dương, giam mình trong lầu kín cũng không thể không nghe, không thấy bao vẻ đẹp thiên nhiên tươi tắn rộn rã xung quanh. Thiên nhiên ấy xôn xao hay chính tấm lòng của nhà thơ cũng đang náo nức muốn hòa cùng niềm vui sự sống? Cuộc sống của ông không phải của một ẩn sĩ lánh đời mà chính là phản chiếu của tâm hồn yêu đời thiết tha, vần đón nhận thưởng thức được niềm vui cuộc sống thanh bình để quên đi nỗi riêng tư sầu muộn. Thiên nhiên đã đem lại một bài học lớn. Lay thức khát vọng mãnh liệt muốn trở lại với đời của nhà thơ. Thiên nhiên ấy đả thổi bùng khát vọng của người anh hùng đầu bạc mà vần vẹn tấm lòng son: Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng Dân giàu đủ khắp đòi phương Còn gì giản dị, thanh cao, súc tích hơn những lời thơ mộc mạc chân thành ấy! Giữa thiên nhiên tuyệt đẹp, Nguyễn Trãi không hề mong muốn hưởng thụ thú nhàn tản cho riêng mình. Ông không phải con người chỉ chăm chăm giữ lấy sự trong sạch cho riêng mình theo triết lí nhà Nho "độc thiện kì thân". Ở sâu thẳm tâm hồn ông vẫn là nồi niềm "ưu quốc ái dân", là khát khao hành động của một con người trọn đời vì lợi ích của nhân dân. Tinh thần Nguyễn Trãi vẫn không hề nhụt giảm, vẫn còn nung nấu hoài bão cống hiến cho đất nước thái bình thịnh trị như thời Đường Ngu — xã hội thịnh trị lí tưởng theo quan niệm nho gia. Giản dị thay và cũng cao cả thay sáu chữ đúc kết tấm lòng Nguyễn Trãi hướng về nhân dân, Quả thật, riêng ông trong hoàn cảnh bấy giờ có nhiều nỗi buồn, nhưng bản chất tâm hồn Nguyễn Trãi luôn "trong sáng và đầy sức sống" (lời cố thủ tuớng Phạm Văn Đồng). Tâm hồn ấy chỉ cháy bỏng niềm mong ước đem lại cho nhân dân cuộc sống giàu đủ. Niềm mong mỏi nhân dân "khắp nơi không một tiếng hờn giận oán sầu" chính là minh chứng cho nhân cách trong sáng tuyệt vời của Nguyễn Trãi. Bảo kính cảnh giới - bài học lớn từ thiên nhiên giúp Nguyễn Trãi răn mình, chứa đựng bao tình cảm yêu đời yêu sự sống. Ta nhận ra một tâm hồn nghệ sĩ - chiến sĩ của úc Trai tiên sinh. Tấm lòng "sáng tựa sao Khuê" ấy vẫn tỏa sáng đến tận hôm nay!

Đề bài: Anh ( chị ) hãy phân tích bài thơ "Từ Ấy" để làm sáng tỏ đặc điểm " Thơ Tố Hữu là thơ trữ tình chính trị "

Nhắc đến Tố Hữu là nhắc đến một trong những nhà thơ có một vị trí đặc biệt trong nền thơ ca Việt Nam hiện đại. Đặc điểm phong cách thơ Tố Hữu là khuynh hướng thơ trữ tình chính trị, nhà thơ luôn hướng tới cái ta chung với lẽ sống lớn, tình cảm lớn và con đường cách mạng luôn song hành với con đường thơ ca. Nổi bật lên là bài thơ "Từ Ấy" in trong tập thơ cùng tên " Từ Ấy " - là bài thơ đầu tiên mở đầu cho khuynh hướng thơ trữ tình chính trị ở những chặng thơ đầu tiên của nhà thơ. Thân Bài : Khái quát : Bài thơ Từ Ấy được in trong phần Máu Lửa của tập thơ " Từ Ấy ". Được Tố Hữu sáng tác vào năm 1938, bài thơ viết về một sự kiện có ý nghĩa làm nên bước ngoặt lớn trong đường đời và đường thơ của Tố Hữu - Giây phút nhà thơ bắt gặp ánh sáng lí tưởng cách mạng. Đi vào giải thích câu nói : Nói thơ Tố Hữu là thơ trữ tình chính trị có nghĩa là những sự kiện chính trị có ý nghĩa lớn với Đất Nước, với cá nhân, làm thay đổi cả một đời người đều trở thành nguồn cảm hứng trong thơ Tố Hữu. cái chất trữ tình cùng cảm xúc chân thành của nhà thơ quyện vào nhau, làm nên những vần thơ ca ngợi Đảng, ca ngợi Cách Mạng. Bài thơ " Từ Ấy" là bài thơ đánh dấu mốc son quan trọng, có ý nghĩa nhất đối với cuộc đời của nhà thơ, chính giây phút nhà thơ bắt gặp ánh sáng lí tưởng cách mạng ấy đã làm nên sự thay đổi kì diệu về nhận thức, lí tưởng của một hồn thơ thuộc về cách mạng, thuộc về nhân dân.. Luận điểm 1 : Đến với khổ thơ mở đầu, ta bắt gặp cảm xúc vui sướng, hạnh phúc, say mê của hồn thơ Tố Hữu khi lần đầu tiên bắt gặp ánh sáng lí tưởng cách mạng. Một nguồn cảm xúc thiêng liêng và chân thành xuất phát từ chính trái tim của nhà thơ. Đây cũng là xúc cảm tiêu biểu cho khuynh hướng thơ trữ tình chính trị của Tố Hữu. "Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ Mặt trời chân lí chói qua tim Hồn tôi là một vườn hoa lá Rất đậm hương và rộn tiếng chim..." Ngay từ câu thơ mở đầu đã bắt gặp hình ảnh " Từ Ấy " => đem lại sự ấn tượng và khẳng định một lần nữa khoảng time mà nhà thơ bắt gặp ánh sáng lí tưởng. Nói lên cảm xúc của mình trước những giây phút thiêng liêng như thế, nhà thơ sử dụng các thử pháp nghệ thuật : so sánh, ẩn dụ và nhân hoá.. hình ảnh " nắng hạ " cho ta thấy được một cái ánh nắng chói chang gay gắt của buổi trưa hè. Khác với nhiều nhà thơ khác luôn tìm đến ánh trăng, tới cái ánh nắng của buồi chiều sa thì Tố Hữu tìm đến cái nắng của mùa hạ. Đúng vậy, cũng chỉ có ánh nắng ấy mới toả được sự chói chang rực rỡ của lí tưởng cách mạng, mới diễn tả được hết sự sửng sốt và choáng váng của nhà thơ khi đứng trước cái lí tưởng rực rỡ như thế.Soi tỏ vào bài thơ này ta mới thấy hết được nguồn cảm xúc của nhà thơ khi đứng trước ánh sáng huy hoàng của chân lý " Đời đen tối ta phải tìm ánh sáng Ta đi tới chỉ một đường cách mạng " Và dường như như thế chưa đủ để nói lên sự toả sáng của " lí tưởng cách mạng " nhà thơ lại tìm đến hình ảnh " Mặt trời chân lí ", đó chính là biểu tượng cho lí tưởng mà nhà thơ theo đuổi. Hình ảnh mặt trời biểu hiện cho sự ấm nóng, rực rỡ và là nguồn sáng bất diệt. Đúng vậy, lí tưởng ấy đâu phải chí toả sáng trong phút chốc mà sẽ toả sáng bất diệt, là nguồn sáng vĩnh cửu, không gì có thể dập tắt nổi. Tố Hữu gọi lí tưởng cách mạng là mặt trời chân lí bởi đó chính là nguồn sáng dẫn đường cho cuộc đời đã từng tối tăm, mù mịt của nhà thơ khi " băn khoăn đi kiếm lẽ yêu đời "... Mặt trời chân lý ấy " chói " qua tim người nghệ sĩ . hình ảnh trái tim là nơi chứa đựng biết bao tình cảm , cảm xúc, là nơi kết hợp giữa tâm lí và ý thức trí tuệ " mặt trời chân lí chói qua tim giống như xuyên rọi qua tất cả những tình cảm, lí tưởng của nhà thơ và cũng chỉ khi được ánh sáng ấy chiếu rọi nhà thơ mới thực sự hành động đúng, mới cảm thấy được ý nghĩa của cuộc sống mình . Chính ánh sáng chói chang rực rỡ ấy đã làm thay đổi cuộc đời, thay đổi cả tình cảm của nhà thơ : " Hồn tôi là một vườn hoa lá Rất đậm hương và rộn tiếng chim.." Khác hẳn với hồn thơ khi nhà thơ còn chưa bắt gặp ánh sáng lí tưởng, hồn thơ của Tố Hữu bây giờ rạo rực, vui sướng đến nỗi được so sánh với hình ảnh " vườn hoa " -> vườn hoa đầy đủ sắc màu, tràn ngập những âm thanh của tiếng chim, mùi hương của hoa lá... Đúng vậy, tâm trạng của nhà thơ đang tràn ngập rất nhiều cảm xúc ; có cái ngất ngây, say mê trước "hương thơm" của lí tưởng cách mạng, có cái rộn ràng, rạo rực vui sướng như tiếng chim kia.... Nhà thơ sử dụng các động từ mạnh , cũng các thủ pháp nghệ thuật ẩn dụ so sánh và đặc biệt là lối vắt dòng từ câu thứ ba xuống câu thứ tư đã góp phần lớn trong việc biểu hiện cảm xúc của mình (hứng khởi, phơi phới và đầy thiêng liêng..........) Hợp : ( ND và NT chính của khổ ) Luận điểm 2 : Không chỉ dừng lại ở sự vui sướng khi bắt gặp ánh sáng lí tưởng mà ở khổ thơ thứ hai đã cho thấy được sự chuyển biến rõ rệt trong tình cảm, nhận thức của hồn thơ Tố Hữu. Khổ thơ cũng giống như một sự quyết tâm của cái tôi nhỏ bé muốn hoà nhập với cái ta chung rộng lớn của nhân dân. " Tôi buộc hồn tôi với mọi người Để tình trang trải với trăm nơi Để hồn tôi với bao hồn khổ Gần gũi nhau mạnh thêm khối đời " Phân tích từ " tôi " với "mọi người ", trước khi giác ngộ lý tưởng cách mạng, TH thuộc tầng lớp tiểu tư sản ( luôn đề cao cái tôi cá nhân ) , nhưng khi được giác ngộ lí tưởng , TH muốn " buộc " cái tôi nhỏ bé ấy với mọi người, muốn gắn bó cuộc sống mình với cuộc sống nhân dân. Chính từ buộc đã làm cho cái tôi và mọi người không còn khoảng cách... Không chỉ dừng lại ở việc buộc hồn tôi với mọi người mà nhà thơ còn muốn tình cảm, tình yêu thương của mình đc trang trải tới trăm nơi . Từ " Buộc " với " trang trải " trên bề mặt câu chữ là hoàn toàn đối lập nhau, nhưng chính hai từ đối lập như vậy đặt cạnh nhau mới làm nên triết lý sống " Gắn bó và san sẻ " ( Bình thêm , có.... mới có.... ) Khổ thơ sử dụng các từ " mọi người, trăm nơi, hồn khổ " nhưng không đối lập với cái tôi nhỏ bé của nhà thơ, bởi tình cảm, bởi phần hồn của nhà thơ đã được trải tới trăm nơi, k còn chỉ thuộc về riêng mình nữa. Trong câu thơ cho ta thấy được tình yêu thương của TH đặc biệt hướng đến những con người khốn khổ, những số phận thấp khổ bé họng, bị chèn ép trong xã hội ... chính khi phần hồn của tôi gần gũi với những con người như thế đã tạo ra một " khối đời " ( phân tích khối đời là gì, có sức mạnh như thế nào? , chú ý đến " tình đoàn kết " ) Hợp ( Nội dung và NT chính của khổ : NT điệp cấu trúc câu " để tình để hồn, tiểu đối, giọng điệu thiết tha, chân thành,.....) Luận điểm 3 : Mạch trữ tình chính trị của nhà thơ còn được tập trung ở khổ thơ cuối cùng, nói lên được chuyễn biến tình cảm vô cùng sâu sắc của TH mà ở đó mqh giữa nhà thơ với nhân dân, với mọi người là mqh " máu mủ, ruột thịt " " Tôi đã là con của vạn nhà Là em của vạn kiếp phôi pha Là anh của vạn đầu em nhỏ Không áo cơm, cù bất cù bơ." Câu thơ đầu tiên cho thấy mối quan hệ của nhà thơ với vạn nhà, là mối quan hệ " máu mủ ruột thịt thiêng liêng " ( Lại nói trước khi giác ngộ lí tưởng cách mạng, nhà thơ thuộc tầng lớp tiểu tư sản, tầng lớp coi trọng cái tôi cá nhân, có cái ích kỉ và hẹp hòi ) Ngay từ câu thơ thứ hai đã cho thấy được việc TH nhận thức được trách nhiệm của bản thân mình , nhà thơ đứng vào hàng ngũ những con người " sống vì nhân dân, vì đất nước " . tiếp nối " vạn kiếp phôi pha ", dẫn đầu cho vạn đầu em nhỏ " k áo cơm, cù bất cù bơ ", chính những em nhỏ như thế là đối tượng để TH hăng say hoạt động cách mạng, tiếp thêm sức mạnh cho TH bước vào cuộc say mê cho lí tưởng mình đã chọn. Điệp từ "là" được nhắc đi nhắc lại, nó vang lên một âm hưởng mạnh mẽ, kết hợp với các đại từ " con, em anh ' cùng các số từ ước lệ cho thấy nhà thơ đã cảm nhận được sâu sắc trách nhiệm của mình, cảm nhận được sự gắn bó và thân thiết của mình với đại gia đình quần chúng lao khổ . Hợp chung và bình luận : ( Nội dung : Nghệ thuật : sử dụng hình ảnh, động từ mạnh, biện pháp tu từ, ngôn ngữ giàu nhạc điệu lúc thể hiện sự sung sướng hạnh phúc, lúc lại lắng xuống trở nên trang nghiêm, thành kính.....) Kết Bài : "Từ ấy" đã nói một cách thật tự nhiên nhuần nhụy về lí tưởng, về chính trị và thật sự là tiếng hát của một thanh niên, một người cộng sản chân chính luôn tuôn trào trong mình mạch nguồn của lí tưởng cách mạng.

Phân tích bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ

Phân tích bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ- Bài thơ Bài Ca Ngất Ngưởngđã vẽ rõ nét chân dung của nhà thơ. Đây chính là phong cách sống, phong cách nghệ thuật của con người và của nhà thơ Nguyễn Công Trứ. Nguyễn Công Trứ (1778- 1858) tên tục là Củng, tự Tồn Chất, hiệu Ngộ Trai, biệt hiệu Hy Văn, người làng Uy Viễn (nay là xóm Lam Thủy, xã Xuân Giang, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh). Nguyễn Công Trứ là nhân vật "công thành", "thân thoái" khá muộn trong lịch sử danh nhân Việt Nam. Ngoài bốn mươi tuổi mới đỗ đạt và làm quan, và lần thứ hai ở tuổi "thất thập" ông xin cáo quan về hưu mới được nhà vua chấp nhận. Có thể hình dung cuộc đời của ông Hy Văn là là đầy ắp những trang đời về sự kiện: giữ chức hành tẩu ở Quốc sử quán, giữ các chức tri huyện Đường Hào ở Hải Dương, Tư nghiệp quốc tử giám, Tham tán quân vụ, Thị lang Bộ hình, Hữu tham tri bộ hình, Dinh điền sứ, Bố chánh sứ Hải Dương, Tham tri Bộ binh, Tổng Đốc Hải An, Tuần phủ tỉnh An Giang, làm lính thú ở biên thùy, làm chủ sự Bộ hình, quyền Án sát Quảng Ngãi, làm ở Phủ thừa phủ Thừa Thiên v.v.v...và đến năm 1847 ông được thăng làm Phủ Doãn. Năm 1848, ông cáo quan về hưu.Từ thủa "bạch diện thư sinh" cho đến "thượng quan", "trí sĩ" gắn liền hàng loạt chuỗi sự kiện mang nhiều biến cố trong cuộc đời ông Hy Văn mà chính Nguyễn Công Trứ đã dệt nên mẫu hình tay ngất ngưởng. Trong sự nghiệp thơ văn của mình, Nguyễn Công Trứ dành cho mảng thơ "Tự thuật " một vị trí quan trọng: thuật về chuyện đi thi, chuyện làm quan, chuyện thăng, giáng chức, chuyện cầm-kì-thi-tửu, chuyện "trong phận sự " và chuyện "ngoài vòng cương tỏa" v.v.v...Ở cương vị và hoàn cảnh nào, vẫn lừng lững một Hy Văn "tài bộ" và một "tay ngất ngưởng" Nguyễn Công Trứ. Trong Tiếng Việt, ngất ngưởng là từ dùng để chỉ, hiểu theo các nghĩa sau : Thứ nhất, ngất ngưởng để chỉ một tư thế tồn tại ở vị trí chênh vênh trên cao, lắc lư, dễ ngã, dễ đổ. Thứ hai, nghĩa của từ ngất ngưởng còn để biểu thị một cách sống, lối sống, thái độ sống, thậm chí khinh bạc, thách thức với các chuẩn mực thông thường. Từ ngất ngưởng nếu hiểu, dùng ở nghĩa thứ nhất thì nét nghĩa từ vựng lại nhằm khắc họa một tư thế, hoạt động còn hiểu theo nghĩa thứ hai lại là sự biểu thị một tích cách, quan niệm sống (tuy nhiên giữa tư thế, hoạt động và tính cách một con người nhiều khi lại đồ chiếu lên nhau, khó lòng tách bạch, cái này là sự biểu hiện cái kia và ngược lại ). Ở Hy Văn, từ ngất ngưởng với đích dùng nghĩa thứ hai. Ngất ngưởng trong quan niệm của con người là những điều khác với lẽ đời, khác với chuẩn mực sống của thời đại.Ông Hy Văn là người ngất ngưởng - khác đời, nhưng với Nguyễn Công Trứ, những trang đời của Hy Văn còn khẳng định ông là một tay ngất ngưởng- hơn đời. Cái khác đời của ông được minh chứng bằng những trang đời ngất ngưởng: khi " vinh hoa, phú quý" lúc thì "trảm giam hậu", lúc "thăng", lúc "giáng" cũng có khi cái "khác đời" đang chênh vênh, chực ngã thì cái "hơn đời" lại nâng đỡ Hy Văn. Ông Hy Văn hành đạo cũng giống như nghệ sĩ xiếc trên sợi dây thăng bằng, có lúc lắc lư, chao đảo tưởng chừng như chực đổ trong rạp xiếc quan trường nhưng bằng tài năng của người nghệ sĩ và lớn hơn là bản lĩnh hơn đời, Nguyễn Công Trứ luôn trụ vững và để lại nhiều ấn tượng sâu đậm cho đời trong những khắc thời gian nghiêng ngả. Chỗ đứng ấy không những không làm ông "lắc lư, dễ đổ, dễ ngã" mà trái lại, nó trở thành điểm tựa, điểm nhấn cho mẫu hình ông Hy Văn càng thêm vững chãi và còn cao hơn chuẩn mực thông thường. Với Hy Văn, "thăng" có cái vinh của "thăng", "giáng" có cái quang của "giáng", "hành đạo" có cái nghĩa của con người xã hội , "hành lạc" có cái lí của con người cá nhân. Vì vậy, với ông cái gì cũng là "phận sự" : "Vũ trụ nội mạc phi phận sự" (trong trời đất, không có cái gì là không liên quan đến ta) và hành đạo hay hành lạc đều mang cốt cách của con người ngất ngưởng. Một trong những lời tuyên ngôn về quan niệm và lí tưởng sống - bản tổng kết về cuộc đời của ông chính là Bài ca ngất ngưởng. Bài thơ được sáng tác khi ông cáo quan về quê. Cáo quan về hưu là lúc ông thoát ra "vòng cương tỏa" và dịp để ông bước vào "thế giới tự do", khép lại chặng đường của con người phận vị để mở ra hành trình cho con người cá nhân, giã từ vị trí một "Thượng quan" để tận hưởng thời gian của một "Trí sĩ ". Bao trùm lên bài thơ là giọng điệu khẳng định, thách thức của nhân vật trữ tình trong tâm thế ngất ngưởng: ngất ngưởng trong tư thế của một thượng quan, ngất ngưởng khi làm một trí sĩ cưỡi bò vàng, ngất ngưởng lúc đến thăm cửa phật và ngất ngưởng khi làm xong "đạo sơ - chung". Tay ngất ngưởng ấy càng trở nên sinh động và thành thực hơn khi được cộng hưởng bởi hình thức thể loại hát nói-một điệu thức của ca trù "thể thơ của con người cá nhân và tự do" [1], "một thể thơ thông dụng trong ca trù thể hiện một con người tài tử thoát khỏi vòng cương tỏa, thoát sáo, thoát tụy lục, danh lợi, nắm lấy phút vui hiện tại" [2]. Ở bài thơ này, yếu tố nhạc và thơ xoắn xuýt vào nhau, chất thơ và chất văn xuôi có dịp tự tình trong nhịp phách réo rắt, cắc, tùng mà người cầm chầu là Tướng công Uy viễn. Như được dịp cởi bỏ cái chật chội của khuôn phép nhà Nho hành đạo, lồ lộ hiện ra một nhà Nho tài tử dập dìu trong tiếng nhạc, cung đàn: "Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng, Không Phật, không Tiên không vướng tục." Qủa thật, "trong nghệ thuật chơi này, không có sự phân biệt quá rõ giữa người hát và người nghe, tất cả cảm thấy đều là nghệ sĩ. Tất cả cảm thấy mình đang sống trong một không gian khác, tạm thời siêu thoát khỏi không gian xã hội chật hẹp câu thúc, gò bó đầy lễ nghi phiền toái, giả tạo."[3]. Lời tuyên ngôn, bản tổng kết về cuộc đời của Nguyễn Công Trứ là hành trình ngất ngưởng từ những trang đời của Hy Văn.Với Nguyễn Công Trứ, cái gọi là chuẩn mực của cuộc sống đương thời không trùng khít với quan niệm sống và cao hơn nữa là lí tưởng của ông, nên suốt một đời Hy Văn đành làm một con người "lệch chuẩn". Nói cách khác, ở ông là sự tồn tại kiểu con người "khổng lồ" về tư tưởng mà chiếc áo chuẩn mực cũn cỡn của xã hội bấy giờ không che nổi người lực sĩ tính cách Nguyễn Công Trứ. Ngất ngưởng - khác đời nhưng không phải là cách sống của kiểu người lập dị, ngổ ngáo, ngạo ngược mà ngất ngưởng ở Hy Văn là ngất ngưởng của một con người có tài và nhân cách sống cao đẹp. Vẻ đẹp của một nhà Nho dám sống "vì đời" và "vì mình", luôn " tận hiến" và biết " tận hưởng", một lí tưởng sống đứng cao hơn cách sống của thói đời. Như một sở nguyện, Nguyễn Công Trứ đến với thơ văn là đến với cuộc đời thứ hai của mình để thỏa mãn "Chí nam nhi " và hát lên "Bài ca ngất ngưởng" về con người, "khác biệt với dòng tư tưởng Phải có danh gì với núi sông, Nguyễn Công Trứ còn bộc lộ cả những tiếng nói trữ tình, đa tình và đa tài. Nguyễn Công Trứ quả đã tạo lập và hoàn thiện mẫu hình ông ngất ngưởng". [4]. Vì thế, qua những trang đời của mình, ông càng khẳng định và thủy chung với quan niệm, lí tưởng sống mà bản thân hướng tới. Mặt khác, Hy Văn còn ngang nhiên thách thức với đời : "Chẳng Trái, Nhạc, cũng vào phường Hàn, Phú Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung, Trong triều ai ngất ngưởng như ông !" Hy Văn ngất ngưởng với đời không chỉ vì ông là người khác đời và hơn đời ở chức danh, phận vị cao, thấp, nếm trải cảnh thăng, giáng thất thường và cách vượt lên thói đời để : " Được mất dương dương người thái thượng, Khen chê phơi phới ngọn đông phong." Mà với Hy Văn, ngất ngưởng còn là sự thủy chung trong lối hành xử của kẻ sĩ "hoàn danh", "vẹn đạo"- "Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung". Thói đời khác ông và ông đứng trên thói đời - sự tỏa sáng trong phương châm xử thế của một nhà Nho nhân cách. Cho nên, ông là người dám sống tận cực và chấp nhận cách sống hết mình "vì đời" và "vì mình". Cội rễ ngất ngưởng ở Hy Văn là sự thức tỉnh con người cá nhân trong mọi phận vị "dường như ông đã tạo được cho mình một sự thoải mái tận độ trong mọi trạng thái tâm lí, tinh thần và vươn đến cái tự do có thể. Con người cá nhân và nhu cầu trần thế có thể có trong văn học Việt Nam trung đại đến Nguyễn Công Trứ là một bước phát triển đột xuất. Thơ văn của ông là sự khẳng định con người cá nhân trên mọi phương diện của lí tưởng kẻ sĩ và lí tưởng nhân sinh" [5]. Trong quan niệm của Hy Văn thì không có gì thuộc về con người mà lại xa lạ đối với con người. Vì vậy, cuộc đời của Hy Văn là hành trình của con người ngất ngưởng đi tìm những giá trị về lí tưởng của kẻ sĩ và lí tưởng nhân sinh. Trên con đường đi tìm lí tưởng ấy, "con người hành đạo" và "con người hành lạc" được thức tỉnh triệt để về ý thức cá nhân. Chính vì thế, ở chốn quan trường hay khi là một hưu quan thì với Hy Văn vẫn là một con người nhất quán - thống nhất trong các thế cực. Nguyễn Công Trứ là hiện tượng "Tiền-hậu bất kiến", một nhà văn độc đáo trong văn học dân tộc Việt Nam, một danh nhân đặc sử, một sự tích tụ giá trị văn hóa nhân loại và kết tinh của một trào lưu nhân đạo mới mẻ trong văn học trung đại. Điều đó cũng không ngoại trừ "quá trình diễn tiến tư tưởng của Nguyễn Công Trứ từ quan niệm chí nam nhi đến triết lí hành lạc là quá trình sụp đổ hoàn toàn của lí tưởng xã hội ở nhà thơ này."[6]. Nếu thế, Hy Văn là người xác lập ra một lí tưởng mới - lí tưởng nhân sinh ? Và như vậy, ngất ngưởng là tuyên ngôn sống, thái độ sống và lí tưởng sống của con người, một định ngữ cho nhân sinh mà cả cuộc đời Nguyễn Công đã "phổ" vào cây đàn độc điệu để hát lên "Bài ca ngất ngưởng" vì con người. Và mẫu hình "tay ngất ngưởng" được dệt từ trang đời của Hy Văn, và nó chính là hình mẫu cho Nguyễn Công Trứ và con người trần thế hướng đến. Một hình mẫu con người xã hội và con người cá nhân, một mẫu hình mà chủ nghĩa nhân văn từng vươn tới. Về điểm này, Nguyễn Công Trứ vượt xa thời đại ông và gần gũi hơn với thời đại chúng ta.

Phân tích tính nghệ thuật trong bài Hai Đứa Trẻ của Thạch Lam

Phân tích tính nghệ thuật trong bài Hai Đứa Trẻ của Thạch Lam Mỗi lần đọc Thạch Lam trong trí tôi lại hiện lên hình ảnh cánh cổng gỗ của khu vườn êm ả được miêu tả trong truyện Dưới bóng hoàng lan. Phía ngoài cánh cổng là một thế giới ồn ào, phồn tạp, nắng nôi, nhưng bên trong là bầu không khí mát rười rượi thoảng mùi hương thật thích hợp cho tâm trạng suy tư và cảm nhận, lắng nghe những điều tế nhị của sự sống. Văn Thạch Lam cũng như khu vườn bên trong cánh cổng ấy, ít sự kiện, hành động nhưng đầy ắp những bâng khuâng. Nó cho ta cơ hội hiểu thấu sâu xa những cuộc đời giản dị, qua sự chiêm nghiệm lặng lẽ. "Hai đứa trẻ" là truyện ngắn rất Thạch Lam. Chất liệu của nó vẫn là cuộc sống tù đọng, mòn mỏi nơi những phố huyện nghèo nàn xơ xác. Nhưng từ thứ chất liệu rất "văn xuôi" đó, nhà văn đã đưa lại cho chúng ta những trang viết hết sức thi vị, không có gì chung với sự thi vị hoá cuộc sống một cách tầm thường. Thi vị ( hay chất thơ) của tác phẩm gắn liền với dụng công của nhà văn muốn khêu gợi trí tưởng tượng nơi người đọc và đánh động khả năng cảm nhận của các giác quan bằng lối hành văn hoặc cách tổ chức lời văn khá riêng biệt. Đây chính là chiều sâu của một nghịch lý tưởng chừng khó giải thích : viết về các sự vật, sự việc tầm thường, đơn điệu mà văn vẫn lôi cuốn đến thế. Điều này phá vỡ một ngộ nhận (chí ít là của người đọc) về tính quyết định của vật liệu. Thực ra nghệ thuật chính là một sự chế ngự vật liệu, vật liệu thông qua những phương thức, phương tiện diễn tả đặc thù. Câu văn của Thạch Lam tả rất sát sự thật, sự việc. Nhưng điều đó không có nghĩa ở đây chỉ có sự khớp đúng đến nghẹt thở. Tiết điệu buông chùng của câu mở đầu thiên truyện chứng tỏ điều đó : " Tiếng trống thu không trên cái chòi của huyện nhỏ; từng tiếng một vang xa để gọi buổi chiều". Cái lõi ngữ pháp của câu chỉ được nhận ra ở vế sau, nhưng sự cảm nhận của người đọc đã thực sự được khởi hành từ trước cùng cụm danh từ được đảo lên trên. Trong câu này cái đáng chú ý còn có từ "gọi". Nó xác lập một tương quan mới (dù vô hình) giữa các sự vật mà từ báo hiệu chẳng hạn không nói lên được. Dĩ nhiên câu văn vừa nêu không chỉ Thạch Lam mới viết nổi. Nhưng điều quan trọng là nó xuất hiện có quy luật chứ không ngẫu nhiên, nhằm nhấn mạnh một điều gì khác hơn những sự kiện nổi trên bề mặt. Xin chú ý thêm hai câu văn khác đứng kề nhau: " Chiều, chiều rồi. Một chiều êm ả như ru, văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào". Trong câu đầu dường như thừa một chữ "chiều", xét theo góc độ thông tin bình thường. Nhưng thực ra ở đây còn có thông tin về tâm trạng mà riêng hai chữ "chiều rồi" chưa truyền tải được (do thiếu vắng nhịp điệu). Mặt khác, nếu không có chữ chiều " thừa ra" ấy, sự buông lơi êm đềm của câu sau sẽ ít có hiệu quả. Tính chất thừa tiếp hô ứng của mạch văn cũng thiếu trọn vẹn. Rõ ràng đọc giả đang bị dẫn dắt bởi văn chứ không phải cái gì khác. Văn Thạch Lam cũng như khu vườn bên trong cánh cổng ấy, ít sự kiện, hành động nhưng đầy ắp những bâng khuâng. Nó cho ta cơ hội hiểu thấu sâu xa những cuộc đời giản dị, qua sự chiêm nghiệm lặng lẽ. "Hai đứa trẻ" là truyện ngắn rất Thạch Lam. Chất liệu của nó vẫn là cuộc sống tù đọng, mòn mỏi nơi những phố huyện nghèo nàn xơ xác. Nhưng từ thứ chất liệu rất "văn xuôi" đó, nhà văn đã đưa lại cho chúng ta những trang viết hết sức thi vị, không có gì chung với sự thi vị hoá cuộc sống một cách tầm thường. Thi vị ( hay chất thơ) của tác phẩm gắn liền với dụng công của nhà văn muốn khêu gợi trí tưởng tượng nơi người đọc và đánh động khả năng cảm nhận của các giác quan bằng lối hành văn hoặc cách tổ chức lời văn khá riêng biệt. Đây chính là chiều sâu của một nghịch lý tưởng chừng khó giải thích : viết về các sự vật, sự việc tầm thường, đơn điệu mà văn vẫn lôi cuốn đến thế. Điều này phá vỡ một ngộ nhận (chí ít là của người đọc) về tính quyết định của vật liệu. Thực ra nghệ thuật chính là một sự chế ngự vật liệu, vật liệu thông qua những phương thức, phương tiện diễn tả đặc thù. Câu văn của Thạch Lam tả rất sát sự thật, sự việc. Nhưng điều đó không có nghĩa ở đây chỉ có sự khớp đúng đến nghẹt thở. Tiết điệu buông chùng của câu mở đầu thiên truyện chứng tỏ điều đó : " Tiếng trống thu không trên cái chòi của huyện nhỏ; từng tiếng một vang xa để gọi buổi chiều". Cái lõi ngữ pháp của câu chỉ được nhận ra ở vế sau, nhưng sự cảm nhận của người đọc đã thực sự được khởi hành từ trước cùng cụm danh từ được đảo lên trên. Trong câu này cái đáng chú ý còn có từ "gọi". Nó xác lập một tương quan mới (dù vô hình) giữa các sự vật mà từ báo hiệu chẳng hạn không nói lên được. Dĩ nhiên câu văn vừa nêu không chỉ Thạch Lam mới viết nổi. Nhưng điều quan trọng là nó xuất hiện có quy luật chứ không ngẫu nhiên, nhằm nhấn mạnh một điều gì khác hơn những sự kiện nổi trên bề mặt. Xin chú ý thêm hai câu văn khác đứng kề nhau: " Chiều, chiều rồi. Một chiều êm ả như ru, văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào". Trong câu đầu dường như thừa một chữ "chiều", xét theo góc độ thông tin bình thường. Nhưng thực ra ở đây còn có thông tin về tâm trạng mà riêng hai chữ "chiều rồi" chưa truyền tải được (do thiếu vắng nhịp điệu). Mặt khác, nếu không có chữ chiều " thừa ra" ấy, sự buông lơi êm đềm của câu sau sẽ ít có hiệu quả. Tính chất thừa tiếp hô ứng của mạch văn cũng thiếu trọn vẹn. Rõ ràng đọc giả đang bị dẫn dắt bởi văn chứ không phải cái gì khác. Suốt truyện ngắn , nhà văn nhiều lần nhấn mạnh sự "ngây thơ" của hai nhân vật chị em qua các nhận xét như: "Liên không hiểu sao...", "Liên tưởng là...", "tâm hồn Liên... có những cảm giác mơ hồ không hiểu", "vũ trụ thăm thẳm bao la đối với tâm hồn hai đứa trẻ như đầy bí mật và xa lạ...","Liên thấy mình sống giữa bao nhiêu sự xa xôi không biết...". Rất có thể nhân vật của truyện "không biết", không hiểu thật, nhưng điều đáng nói là tác giả đã mượn chính tâm trạng nhân vật để ám thị người đọc. Các phủ định từ "không" đã "bẫy" họ sa vào một không khí bất định, mông lung. Độc giả cứ ngỡ mình đang cùng nhà văn theo dõi nhân vật, nhưng thật sự họ đã bị lây nhiễm chính cảm giác của nhân vật và không thôi thao thức. Càng cố gắng hiểu những điều nhân vật "không hiểu" để phân biệt với nó, anh ta càng rơi sâu vào không khí của truyện đến nỗi mất cả đường ra, trong khi tác giả vẫn không ngừng tả, kể để trói anh ta chặt hơn vào câu chuyện mà ông "bịa" ra. Truyện tuy rất ít hành động nhưng vẫn thấp thoáng những lời đối thoại. Chúng được phân bố rất đều trong tác phẩm và xuất hiện giữa những đoạn miêu tả cảnh vật - một khung cảnh lặng lẽ, êm đềm, có phần hiu hắt, buồn bã. Chính không khí ấy quy định sắc điệu của lời đối thoại, trong khi bản thân lời đối thoại cũng mang tính chất lơ lửng, không gây nên sự đột biến nào của mạch truyện. Những câu hỏi nêu ra có thể trả lời cũng được mà không cũng được. Nó không nhằm mục đích tìm biết mà chỉ chờ đợi một sự phụ hoạ, xác nhận điều người nói nghĩ và thậm chí cả sự hiện tồn mờ nhạt của họ nữa : - Em thắp đèn lên chị Liên nhé ! - Cái chõng này sắp gãy rồi chị nhỉ? - Sao hôm nay chị dọn hàng muộn thế ? - Còn cô chưa dọn hàng à? - Có phải buổi trưa em bán cho bà Lực hai bánh xà phòng không ? - A, cô bé làm gì thế ? - Giờ muộn thế này mà họ chưa ra nhỉ ? - Tàu hôm nay không đông, chị nhỉ ? Trước những câu hỏi ấy người đối thoại thường là "mãi rồi mới chép miệng trả lời", ngẫm nghĩ rồi đáp hoặc có đáp cũng "đáp vẩn vơ", thậm chí "không đáp", "không cần ngoảnh mặt ra". Một số người khi muốn chứng minh luận điểm nói rằng cảnh đời được miêu tả trong truyện thật nghèo nàn buồn tẻ, đã viện đến các chi tiết như đám trẻ con nhặt nhạnh những thứ rơi vãi trên nền chợ, chị Tý dọn hàng đến khuya mà không bán được bao nhiêu, hai chị em Liên xem phở bác Siêu như một thứ quà xa xỉ, một người mua hàng đến nửa bánh xà phòng cũng phải mua chịu... Thật ra cần chú ý hơn đến những mấu đối thoại rời rạc đã nói ở trên. Dụng công của Thạch Lam cũng như hồn văn của truyện chính toát lên từ đấy. Nó đưa tới cho người đọc không phải chuyện này chuyện nọ mà là một ấn tuợng buồn nản, xót thương, thậm chí bực bội trước các câu hỏi tủn mủn , bâng quơ, không cần thiết phải trả lời và những lời đáp quá chừng nhạt nhẽo, phẳng lặng. Những ấn tưọng đó khó gây dựng hơn nhiều so với các nhận xét kết luận "đóng bao"sẵn thường thấy ở nhiều truyện thừa giọng giáo huấn mà thiếu tính nghệ thuật. Trong truyện cũng vài lần nổi lên tiếng reo chứa đựng niềm hân hoan mong đợi : - Kìa, hàng phở của bác Siêu đã đến kia rồi. - Đèn ghi đã ra kia rồi. Nhưng những tiếng reo đó đã nhanh chóng phô ra tính chất tội nghiệp của chúng, niềm vui mới nhóm lên đã bị triệt tiêu bởi lời kể nhẩn nha vô tình mà thật "ác nghiệt" : " An và Liên ngửi thấy mùi phở thơm, nhưng ở cái huyện nhỏ này, quà bác Siêu bán là một thứ quà xa xỉ, nhiều tiền , hai chị em không bao giờ mua được " và "chuyến tàu hôm nay không đông như mọi khi, thưa vắng người và hình như kém sáng hơn". Đúng là mong đợi chỉ để mà mong đợi, reo lên chỉ để rồi buồn tiếc và thất vọng hơn. Cảm giác thất vọng của nhân vật chắc chắn là sâu sắc. Nhưng đâu chỉ nhân vật, độc giả cũng thất vọng không kém. Bị trói chặt bởi nhịp cầu lê thê của câu chuyện, họ đã chờ đợi bao nhiêu ở những tiếng reo kia. Thật ra, niềm thất vọng này chính là hiệu quả nghệ thuật của truyện. Sau sự hụt hẫng này, độc giả sẽ vỡ ra những ý nghĩa của đời sống mà truyện muốn hướng tới. Nghệ thuật không phải là nói thẳng mà nói vòng, còn độc giả thì có được cảm giác thật như người trong truyện. Cùng với nhân vật, họ tự nghiệm sinh các giá trị của đời. Hình ảnh thiên nhiên trong truyện đã gây cho người đọc những ấn tượng sâu đậm. Sự êm ả đượm buồn mà ta nhận thấy một phần là của thiên nhiên với tư cách là chất liệu, vật liệu, một phần là của văn. Những bức tranh nho nhỏ được gài xen kẽ với nhũng mẫu đối thoại rời rạc, không hoàn chỉnh. Chúng lấp đầy những khoảng trống của lời nói và cầm giữ nhịp điệu của thiên truyện. Giả sử tác giả viết khác đi, dồn hẳn những đoạn miêu tả thiên nhiên về một phía, và phía kia là hình ảnh sinh hoạt của con người, hẳn giọng điệu điều hoà của truyện sẽ biến mất và chủ đề của truyện sẽ khác đi. Ở đây thiên nhiên không thu hút toàn bộ thần trí con người để họ mê man trong đó. Nó gần gũi, vỗ về, khơi gợi những cảm xúc dịu dàng và bâng khuâng. Nó trổi lên đánh lạc hướng tâm trạng buồn chán của nhân vật ( và của độc giả) thông qua mùi âm ẩm của đất bụi, vẻ lung lay của bóng đèn, bóng người, ánh nhấp nháy của ngàn sao và đom đóm, tiếng động mơ hồ, khe khẽ của loạt hoa bàng rụng xuống vai...Tuy nhiên, việc đánh lạc hướng kia chỉ diễn ra từng lúc một, và nhân vật của truyện lại trở về với thực tại túng thiếu, lam lũ, để tiếp đó rơi vào trạng thái chập chờn nửa mơ , nửa thức, khắc khoải chờ mong, hi vọng ( dẫu chẳng biết hi vọng ở cái gì. Truyện sở dĩ không rơi vào nhàm tẻ dù đối tượng hàm chứa sự tẻ nhàm, chính một phần nhờ lối tả, kể xen kẽ, chắp nối đó. Hai đứa trẻ là truyện ngắn giàu tính nghệ thuật. Tác giả đã rất ung dung, thoải mái khi xử lí chất liệu hiện thực. Tất cả chất liệu đã được tổ chức lại nhằm khơi dậy ở người đọc những cảm xúc nghệ thuật thuần khiết . Nhà văn đưa họ vào thế giới của ông, thôi miên họ, sau đó tự để họ ngẫm nghiệm và rút ra những bài học cần thiết. Ở trên có nhắc tới "khu vườn Thạch Lam". Thực ra "khu vườn"ấy không chỉ có nghĩa là đề tài. Đó là "khu vườn" của nghệ thuật - một nghệ thuật biết vượt thoát khỏi sự trói buộc của đề tài để làm vang dậy tiếng nói riêng của nhà văn.Suốt truyện ngắn , nhà văn nhiều lần nhấn mạnh sự "ngây thơ" của hai nhân vật chị em qua các nhận xét như: "Liên không hiểu sao...", "Liên tưởng là...", "tâm hồn Liên... có những cảm giác mơ hồ không hiểu", "vũ trụ thăm thẳm bao la đối với tâm hồn hai đứa trẻ như đầy bí mật và xa lạ...","Liên thấy mình sống giữa bao nhiêu sự xa xôi không biết...". Rất có thể nhân vật của truyện "không biết", không hiểu thật, nhưng điều đáng nói là tác giả đã mượn chính tâm trạng nhân vật để ám thị người đọc. Các phủ định từ "không" đã "bẫy" họ sa vào một không khí bất định, mông lung. Độc giả cứ ngỡ mình đang cùng nhà văn theo dõi nhân vật, nhưng thật sự họ đã bị lây nhiễm chính cảm giác của nhân vật và không thôi thao thức. Càng cố gắng hiểu những điều nhân vật "không hiểu" để phân biệt với nó, anh ta càng rơi sâu vào không khí của truyện đến nỗi mất cả đường ra, trong khi tác giả vẫn không ngừng tả, kể để trói anh ta chặt hơn vào câu chuyện mà ông "bịa" ra. Truyện tuy rất ít hành động nhưng vẫn thấp thoáng những lời đối thoại. Chúng được phân bố rất đều trong tác phẩm và xuất hiện giữa những đoạn miêu tả cảnh vật - một khung cảnh lặng lẽ, êm đềm, có phần hiu hắt, buồn bã. Chính không khí ấy quy định sắc điệu của lời đối thoại, trong khi bản thân lời đối thoại cũng mang tính chất lơ lửng, không gây nên sự đột biến nào của mạch truyện. Những câu hỏi nêu ra có thể trả lời cũng được mà không cũng được. Nó không nhằm mục đích tìm biết mà chỉ chờ đợi một sự phụ hoạ, xác nhận điều người nói nghĩ và thậm chí cả sự hiện tồn mờ nhạt của họ nữa : - Em thắp đèn lên chị Liên nhé ! - Cái chõng này sắp gãy rồi chị nhỉ? - Sao hôm nay chị dọn hàng muộn thế ? - Còn cô chưa dọn hàng à? - Có phải buổi trưa em bán cho bà Lực hai bánh xà phòng không ? - A, cô bé làm gì thế ? - Giờ muộn thế này mà họ chưa ra nhỉ ? - Tàu hôm nay không đông, chị nhỉ ? Trước những câu hỏi ấy người đối thoại thường là "mãi rồi mới chép miệng trả lời", ngẫm nghĩ rồi đáp hoặc có đáp cũng "đáp vẩn vơ", thậm chí "không đáp", "không cần ngoảnh mặt ra". Một số người khi muốn chứng minh luận điểm nói rằng cảnh đời được miêu tả trong truyện thật nghèo nàn buồn tẻ, đã viện đến các chi tiết như đám trẻ con nhặt nhạnh những thứ rơi vãi trên nền chợ, chị Tý dọn hàng đến khuya mà không bán được bao nhiêu, hai chị em Liên xem phở bác Siêu như một thứ quà xa xỉ, một người mua hàng đến nửa bánh xà phòng cũng phải mua chịu... Thật ra cần chú ý hơn đến những mấu đối thoại rời rạc đã nói ở trên. Dụng công của Thạch Lam cũng như hồn văn của truyện chính toát lên từ đấy. Nó đưa tới cho người đọc không phải chuyện này chuyện nọ mà là một ấn tuợng buồn nản, xót thương, thậm chí bực bội trước các câu hỏi tủn mủn , bâng quơ, không cần thiết phải trả lời và những lời đáp quá chừng nhạt nhẽo, phẳng lặng. Những ấn tưọng đó khó gây dựng hơn nhiều so với các nhận xét kết luận "đóng bao"sẵn thường thấy ở nhiều truyện thừa giọng giáo huấn mà thiếu tính nghệ thuật. Trong truyện cũng vài lần nổi lên tiếng reo chứa đựng niềm hân hoan mong đợi : - Kìa, hàng phở của bác Siêu đã đến kia rồi. - Đèn ghi đã ra kia rồi. Nhưng những tiếng reo đó đã nhanh chóng phô ra tính chất tội nghiệp của chúng, niềm vui mới nhóm lên đã bị triệt tiêu bởi lời kể nhẩn nha vô tình mà thật "ác nghiệt" : " An và Liên ngửi thấy mùi phở thơm, nhưng ở cái huyện nhỏ này, quà bác Siêu bán là một thứ quà xa xỉ, nhiều tiền , hai chị em không bao giờ mua được " và "chuyến tàu hôm nay không đông như mọi khi, thưa vắng người và hình như kém sáng hơn". Đúng là mong đợi chỉ để mà mong đợi, reo lên chỉ để rồi buồn tiếc và thất vọng hơn. Cảm giác thất vọng của nhân vật chắc chắn là sâu sắc. Nhưng đâu chỉ nhân vật, độc giả cũng thất vọng không kém. Bị trói chặt bởi nhịp cầu lê thê của câu chuyện, họ đã chờ đợi bao nhiêu ở những tiếng reo kia. Thật ra, niềm thất vọng này chính là hiệu quả nghệ thuật của truyện. Sau sự hụt hẫng này, độc giả sẽ vỡ ra những ý nghĩa của đời sống mà truyện muốn hướng tới. Nghệ thuật không phải là nói thẳng mà nói vòng, còn độc giả thì có được cảm giác thật như người trong truyện. Cùng với nhân vật, họ tự nghiệm sinh các giá trị của đời. Hình ảnh thiên nhiên trong truyện đã gây cho người đọc những ấn tượng sâu đậm. Sự êm ả đượm buồn mà ta nhận thấy một phần là của thiên nhiên với tư cách là chất liệu, vật liệu, một phần là của văn. Những bức tranh nho nhỏ được gài xen kẽ với nhũng mẫu đối thoại rời rạc, không hoàn chỉnh. Chúng lấp đầy những khoảng trống của lời nói và cầm giữ nhịp điệu của thiên truyện. Giả sử tác giả viết khác đi, dồn hẳn những đoạn miêu tả thiên nhiên về một phía, và phía kia là hình ảnh sinh hoạt của con người, hẳn giọng điệu điều hoà của truyện sẽ biến mất và chủ đề của truyện sẽ khác đi. Ở đây thiên nhiên không thu hút toàn bộ thần trí con người để họ mê man trong đó. Nó gần gũi, vỗ về, khơi gợi những cảm xúc dịu dàng và bâng khuâng. Nó trổi lên đánh lạc hướng tâm trạng buồn chán của nhân vật ( và của độc giả) thông qua mùi âm ẩm của đất bụi, vẻ lung lay của bóng đèn, bóng người, ánh nhấp nháy của ngàn sao và đom đóm, tiếng động mơ hồ, khe khẽ của loạt hoa bàng rụng xuống vai...Tuy nhiên, việc đánh lạc hướng kia chỉ diễn ra từng lúc một, và nhân vật của truyện lại trở về với thực tại túng thiếu, lam lũ, để tiếp đó rơi vào trạng thái chập chờn nửa mơ , nửa thức, khắc khoải chờ mong, hi vọng ( dẫu chẳng biết hi vọng ở cái gì. Truyện sở dĩ không rơi vào nhàm tẻ dù đối tượng hàm chứa sự tẻ nhàm, chính một phần nhờ lối tả, kể xen kẽ, chắp nối đó. Hai đứa trẻ là truyện ngắn giàu tính nghệ thuật. Tác giả đã rất ung dung, thoải mái khi xử lí chất liệu hiện thực. Tất cả chất liệu đã được tổ chức lại nhằm khơi dậy ở người đọc những cảm xúc nghệ thuật thuần khiết . Nhà văn đưa họ vào thế giới của ông, thôi miên họ, sau đó tự để họ ngẫm nghiệm và rút ra những bài học cần thiết. Ở trên có nhắc tới "khu vườn Thạch Lam". Thực ra "khu vườn"ấy không chỉ có nghĩa là đề tài. Đó là "khu vườn" của nghệ thuật - một nghệ thuật biết vượt thoát khỏi sự trói buộc của đề tài để làm vang dậy tiếng nói riêng của nhà văn.

Thuyết minh bài Phú sông Bạch Đằng của Trương Hán Siêu

Phú sông Bạch Đằng của Trương Hán Siêu là một tác phẩm tiêu biểu của văn học yêu nước thời Lí- Trần.Trương Hán Siêu (?- 1354) là nhà văn đời Trần, quê ở Ninh Bình. Thời trẻ, ông từng là môn khách của Trần Hưng Đạo, là người có ít nhiều đóng góp trong hai cuộc kháng chiến chống Nguyên-Mông lần thứ hai và thứ ba. Ông từng giữ nhiều chức vụ quan trọng trong triều Trần, là người học vấn uyên thâm, tính tình cương trực, được các vua Trần tôn là thầy, được các nho sĩ đời sau xem là một trí thức nho học chân chính của thời Thịnh Trần. Tác phẩm của ông bộc lộ tinh thần yêu non sông đất nước, tự hào về truyền thống vẻ vang của lịch sử dân tộc, đượm sắc thái trữ tình hoài cổ. Ngôn ngữ trong văn chương của Trương Hán Siêu tinh tế, lắng đọng, sử dụng thành công những hình dung từ giàu sắc thái trữ tình, giọng điệu thi phú rất uyển chuyển. Bài "Phú sông Bạch Đằng" được sáng tác sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông khoảng 50 năm. Bạch Đằng là con sông ghi dấu nhiều chiến công oanh liệt của dân tộc như trận thắng quân Nam Hán năm 938 của Ngô Quyền, trận thắng quân Nguyên Mông năm 1288 của Trần Hưng Đạo. Đã có rất nhiều nhà thơ viết về con sông lịch sử đầy niềm tự hào này, nhưng bài "Phú sông Bạch Đằng" của Trương Hán Siêu là nổi tiếng và đặc sắc nhất. Tác phẩm được viết theo lối phú cổ thể. Đây là một thể loại văn có nguồn gốc từ Trung Quốc, viết bằng văn vần hoặc văn xuôi có xen lẫn văn vần, có nội dung kể, tả khách quan các sự việc, phong tục, cảnh vật, bàn sự đời. Mở đầu bài phú,tác giảbày tỏ ước muốn được đi đây, đi đó để thưởng ngoạn và ngắm vẻ đẹp của quê hương, đất nước. "Khách có kẻ Giương buồm giong gió chơi vơi, Lướt bể chơi trăng mải miết." Tác giảđã liệt kê 1 loạt những địa danh nổi tiếng,những nơi có vẻ đẹp được nhiều người biết đến ở Trung Quốc như:Vũ Huyệt,Cửu Giang,Ngũ Hồ, Tam Ngô,Bách Việt... Đây là cách nói ước lệ tượng trưng tác giả bày tỏ niềm khao khát mãnh liệt được đi du ngoạn nhiều nơi để ngắm cảnh, để cảm nhận vẻ đẹp của thiên nhiên, đất nước ta. Ở phần tiếp theo,ta lại thấy cảnh sông Bạch Đằng qua lời miêu tả của nhân vật khách một bức tranh sinh động,giản dị: "Bát ngát sóng kình muôn dặm, Thướt tha đuôi trĩ một màu Nước trời một sắc Phong cảnh ba thu." Thông qua 1 loạt những từ láy gợi hình,kết hợp với việc nhắc đến những địa danh gắn liền với sông Bạch Đằng.Tg đã gợi cho người đọc vẻ đẹp hùng vĩ,bát ngát mênh mông của sông Bạch Đằng. Đồng thời tg cũng bày tỏ được cảm xúc của mình khi đứng trước 1 nhân chứng ls khi nhớ về quá khứ oanh liệt. "Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá Tiếc thay dấu vết luống còn lưu" Hơn thế nữa,ta còn thấy được hào khí của quân ta trong trận chiến Bạch Đằng thông qua lời kể của các bô lão thật hào hùng và lớn mạnh qua phần bình: "Thuyền bè muôn đội,tinh kỳ phấp phới, Hùng hổ sáu quân,giáo gươm sáng chói." ... "Khác nào như khi xưa: Trận Xích Bích quân Tào Tháo tan tác tro bay, Trận Hợp Phì giặc Bồ Kiên hoàn toàn chết trụi." Qua đó,ta thấy được những chiến công vĩ đại ấy được kể bằng giọng văn gấp gáp,khẩn trương, tái hiện được khí thế hào hùng,mang âm hưởng của bản anh hùng ca tràn đầy niềm tự hào. Lời kể của các bô lão đã nhấn mạnh được chiến thắng vẻ vang của quân dân ta và sự thất bại thảm hại của kẻ thù. Từ đó,tác giảcòn bàn về nguyên nhân của cuộc thắng lợi: "Quả là:Trời đất cho nơi hiểm trở, Cũng nhờ: Nhân tài giữ cuộc điện an." Theo các bô lão,thì nhân dân ta chiến thắng không chỉ nhờ địa thế hiểm trở mà còn có nhiều người tài.1 trong những nhân tài kiệt xuất thời bấy giờ là Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn. Cuối cùng,tg kết thúc bài phú bằng 2 lời ca. Đầu tiên là lời của các bô lão : "Sông Đằng 1 dải dài ghê, Luồng to sóng lớn dồn về biển Đông. Những người bất nghĩa tiêu vong, Nghìn thu chỉ có anh hùng lưu danh." Những lời ca của bô lão cũng khẳng định được 1 triết lý vững chắc:người bất nghĩa sẽ bị diệt vong,còn anh hùng thì sẽ được lưu danh muôn thuở Không những thế, đến đây,khách cũng nối tiếp mà ca ngợi rằng: "Anh minh hai vị thánh quân, Sông đây rửa sạch mấy lần giáp binh. Giặc tan muôn thuở thăng bình. Bởi đâu đất hiểm cốt mình đức cao." Tác giảđã ca ngợi sự anh minh của vua Trần-là người có đức cao,luôn đặt quyền lợi của quốc gia lên trên quyền lợi của cá nhân.Như vậy,ta có thể thấy được nguyên nhân thắng lợi của quân ta phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố,trong đó vẫn không thể thiếu được những nhân tài và người lãnh đạo có đức cao luôn biết lo cho dân,cho nước... Qua những hoài niệm về quá khứ, "Bạch Đằng giang phú" đã thể hiện lòng yêu nước,niềm tự hào dân tộc trước chiến công trên sông Bạch Đằng, đồng thời ca ngợi truyền thống anh hùng bất khuất,truyền thống đạo lý nhân nghĩa ngàn đời của dân tộc Việt Nam.Tác phẩm cũng chứa đựng tư tưởng nhân văn cao đẹp qua việc đề cao vai trò,vị trí của con người trong lịch sử. Nhìn trở lại toàn bộ bài phú,ta thấy "Bạch Đằng giang phú"là đỉnh cao nghệ thuật của thể phú trong văn học trung đại Việt Nam.Tác giả đã kể,miêu tả về cảnh sông Bạch Đằng,thiên nhiên 1 cách sinh động,chân thật,có tính trữ tình cao,xen lẫn với lời kể là những cảm xúc,những hoài niệm về quá khứ oanh liệt. Bài phú mang đậm chất sử thi hoành tráng sử dụng nhiều điển tích, điển cố chọn lọc,giàu sức gợi,những câu văn ngắn dài,phần cuối xen vào những câu thơ làm nên âm điệu hào hùng và rất trữ tình cho tác phẩm.Với nghệ thuật sắp xếp ngôn từ gây âm hưởng đa dạng, vừa khoan thai thoắt đã trở nên gấp gáp, rồi lại trở lại khoan thai, và cả bằng sự sinh động của nhịp điệu... mấy trăm năm qua bài phú đã chiếm lĩnh trọn vẹn tâm hồn người đọc. Đây là tác phẩm không chỉ nổi tiếng thời Trần mà còn là 1 trong những bài phú viết bằng chữ Hán hay vào bậc nhất nước ta thời trung đại.Bài phú chứa chan lòng tự hào dt,vừa đọng 1 nỗi đau hoài cổ và có tư tưởng triết lý sâu sắc. Sau khi đọc xong tác phẩm,ta có thể khẳng định rằng "Phú sông Bạch Đằng" là đình cao nghệ thuật của thể phú trong văn học trung đại VN

Bài thơ " Mùa xuân nho nhỏ" của Thanh Hải có những khổ thơ thật hay, thật xúc động, bộc lộ ước nguyện được hòa nhập, dâng hiến cho cuộc đời. Em hãy tìm hiểu và phân tích hai khổ thơ liên tiếp trong bài "Mùa xuân nho nhỏ" để làm rõ vấn đề trên.

Thanh Hải là nhà thơ xứ Huế. Vùng đất hữu tình với con sông Hương thơ mộng và núi Ngự Bình trang nghiêm vun đắp cho hồn thơ Thanh Hải bay cao. Vốn trưởng thành trong hai cuộc kháng chiến, Thanh Hải là người có công đầu trong việc xây dựng nền văn học cách mạng ở miền Nam thời chống Mỹ. Những tác phẩm của ông được bao thế hệ bạn đọc nhắc mãi như " Mồ anh hoa nở", "Những đồng chí trung kiên". Nhưng nhắc đến thơ Thanh Hải, người ta thường nghĩ ngay đến bài thơ "Mùa xuân nho nhỏ". Tác phẩm được nhà thơ sáng tác trong khi nằm trên giường bệnh, trước khi mất ít lâu. Đó là tiếng lòng của nhà thơ trước vẻ đẹp của thiên nhiên, nhịp sống của đất nước vào xuân. Đặc biệt hơn nữa, nhà thơ bày tỏ ước vọng được hòa nhập hiến dâng cho cuộc đời, cho mùa xuân chung của dân tộc. Khát vọng ấy được Thanh Hải thể hiện rõ qua hai khổ bốn và năm của bài thơ: "Ta làm con chim hót Ta làm một cành hoa Ta nhập vào hòa ca Một nốt trầm xao xuyến. Một mùa xuân nho nhỏ Lặng lẽ dâng cho đời Dù là tuổi hai mươi Dù là khi tóc bạc..." Trong khí thế bừng bừng của đất nước vào xuân, tác giả đã cảm nhận được một mùa xuân trỗi dậy từ tâm hồn mình. Đó là mùa xuân của lòng người, mùa xuân của sức sống tươi trẻ, mùa xuân của cống hiến và hoà nhập. Tác giả không mơ một giấc mơ vĩ đại, không ước vọng lớn lao, chỉ là những mong muốn đơn sơ bình dị: " Ta làm con chim hót Ta làm một cành hoa Ta nhập vào hòa ca Một nốt trầm xao xuyến." Xin làm một tiếng chim hót hoà trong muôn vạn tiếng chim cất cao tiếng hót chào mừng xuân mới, xin làm một cành hoa trong muôn vạn cánh hoa âm thầm khoe sắc tỏa hương thơm cho cuộc đời chung, xin làm một nốt nhạc trầm trong bản đồng ca của dân tộc ca ngợi non sông đất nước đang đổi mới. Ước nguyện của nhà thơ sao mà đáng yêu, gần gũi lạ kì. Đó chính là sự chiếu ứng của hình ảnh "bông hoa tím biếc"và âm thanh tiếng chim chiền chiện ở khổ thơ thứ nhất. Đọc từng câu thơ, ta thấy nhịp thơ hối hả, gấp rút như nhịp sống quê hương, như ước mong cháy bỏng mà khiêm tốn của nhà thơ được dâng hiến cho đời. Tâm hồn của tác giả hoà vào mùa xuân đất nước, thôi thúc mạnh mẽ nhưng cũng rất âm thầm: " Một mùa xuân nho nhỏ Lặng lẽ dâng cho đời" Lời thơ như tâm tình thiết tha. Một sự sáng tạo độc đáo của nhà thơ khi phát hiện ra được hình ảnh " mùa xuân nho nhỏ". Mỗi con người, mỗi sự cống hiến được ví như một mùa xuân nhỏ hoà vào mùa xuân chung của đất trời, của Tổ quốc. Đó cũng là nguyện ước nhỏ bé của nhà thơ, muốn được mãi mãi làm việc, hi sinh, cống hiến một cách âm thầm lặng lẽ cho quê hương đất nước bất chấp sự thử thách của thời gian, tuổi tác " Dù là tuổi hai mươi Dù là khi tóc bạc " Lời thơ rắn rỏi, điệp ngữ "dù là" khẳng định thái độ tự tin trước những khó khăn trở ngại của đời người. Tuổi trẻ cống hiến hi sinh, tuổi già cũng tiếp tục âm thầm cống hiến. Ý thức về trách nhiệm đối với quê hương đất nước, khát vọng được sống được cống hiến trở thành lẽ sống trong cuộc đời tác giả. Lời thơ không chỉ là ước nguyện của riêng một nhà thơ mà còn là lời kêu gọi mọi người hãy chung vai gắng sức xây dựng một cuộc đời tươi đẹp trong tương lai. Tâm nguyện này, ta bắt gặp đâu đó trong những vần thơ của Tố Hữu : " Nếu là con chim, chiếc lá Thì chim phải hót, chiếc lá phải xanh Lẽ nào vay mà không có trả Sống là cho, đâu chỉ nhận riêng mình " Sự hi sinh âm thầm, lặng lẽ hiến dâng tài năng, sức lực, tuổi trẻ cho cuộc đời nào phải chỉ có trong thơ Tố Hữu, nhà văn Nguyễn Thành Long trong truyện ngắn " Lặng lẽ Sa Pa " cũng đã khắc họa nên bức chân dung nhân vật anh thanh niên cùng nhiều nhân vật khác. Họ chính là minh chứng sinh động nhất của hình ảnh " mùa xuân nho nhỏ " mà Thanh Hải gửi gắm đến chúng ta qua bài thơ cuối đời của ông. Tóm lại, hai khổ thơ bốn và năm trong bài "Mùa xuân nho nhỏ " đã làm lay động tâm hồn người đọc, không chỉ bởi chất nhạc vấn vương, không chỉ bởi giai điệu vừa thiết tha vừa hào hùng thôi thúc mà còn bởi nguyện ước chân thành và khiêm tốn của nhà thơ. Nguyện ước ấy đâu còn của riêng Thanh Hải. Đọc những vần thơ của ông, ta tự nhủ phải làm gì để không hổ thẹn với những người đi trước , hổ thẹn vì đã chối bỏ trách nhiệm đối với đất nước quê hương ? Tất cả được thể hiện bằng những việc làm cụ thể ở hôm nay.

Chinh Phụ Ngâm Tác giả: Đặng Trần Côn

Thuở trời đất nổi cơn gió bụi, Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên. Xanh kia thăm thẳm tầng trên, Vì ai gây dựng cho nên nỗi này ? Trống Trường Thành lung lay bóng nguyệt, Khói Cam Tuyền mờ mịt thức mây. Chín tầng gươm báu trao tay, Nửa đêm truyền hịch định ngày xuất chinh. Nước thanh bình ba trăm năm cũ. Áo nhung trao quan vũ từ đâỵ Sứ trời sớm giục đường mây, Phép công là trọng, niềm tây sá nào. Đường giong ruổi lưng đeo cung tiễn, Buổi tiễn đưa lòng bận thê noa. Bóng cờ tiếng trống xa xa, Sầu lên ngọn ải, oán ra cửa phòng. Chàng tuổi trẻ vốn giòng hào kiệt, Xếp bút nghiên theo việc đao cung. Thành liền mong tiến bệ rồng, Thước gươm đã quyết chẳng dung giặc trời. Chí làm trai dặm nghìn da ngựa, Gieo Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao. Giã nhà đeo bức chiến bào, Thét roi cầu Vị, ào ào gió thu. Ngòi đầu cầu nước trong như lọc, Đường bên cầu cỏ mọc còn non. Đưa chàng lòng dằng dặc buồn, Bộ khôn bằng ngựa, thủy khôn bằng thuyền. Nước có chảy mà phiền chẳng rửa, Cỏ có thơm mà dạ chẳng khuây. Nhủ rồi nhủ lại cầm tay, Bước đi một bước dây dây lại dừng. Lòng thiếp tựa bóng trăng theo dõi, Dạ chàng xa tìm cõi Thiên San. Múa gươm rượu tiễn chưa tàn, Chỉ ngang ngọn giáo vào ngàn hang beo. Săn Lâu Lan, rằng theo Giới Tử, Tới Man Khê, bàn sự Phục Ba. Áo chàng đỏ tựa ráng pha, Ngựa chàng sắc trắng như là tuyết in. Tiếng nhạc ngựa lần chen tiếng trống, Giáp mặt rồi phút bỗng chia tay. Hà Lương chia rẽ đường này, Bên đường, trông bóng cờ bay ngùi ngùi. Quân trước đã gần ngoài doanh Liễu, Kỵ sau còn khuất nẻo Tràng Dương. Quân đưa chàng ruổi lên đường, Liễu dương biết thiếp đoạn trường này chăng ? Tiếng địch thổi nghe chừng đồng vọng, Hàng cờ bay trong bóng phất phơ. Dấu chàng theo lớp mây đưa, Thiếp nhìn rặng núi ngẩn ngơ nỗi nhà. Chàng thì đi cõi xa mưa gió, Thiếp thì về buồng cũ gối chăn. Đoái trông theo đã cách ngăn, Tuôn màu mây biếc, trải ngần núi xanh. Chốn Hàm Dương chàng còn ngoảnh lại, Bến Tiêu Tương thiếp hãy trông sang. Khói Tiêu Tương cách Hàm Dương, Cây Hàm Dương cách Tiêu Tương mấy trùng. Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy, Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu. Ngàn dâu xanh ngắt một màu, Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai ? Chàng từ đi vào nơi gió cát, Đêm trăng này nghỉ mát phương nao ? Xưa nay chiến địa dường bao, Nội không muôn dặm xiết bao dãi dầu. Hơi gió lạnh, người rầu mặt dạn, Dòng nước sâu, ngựa nản chân bon. Ôm yên gối trống đã chồn, Nằm vùng cát trắng, ngủ cồn rêu xanh. Nay Hán xuống Bạch Thành đóng lại, Mai Hồ vào Thanh Hải dòm qua. Hình khe, thế núi gần xa, Dứt thôi lại nối, thấp đà lại cao. Sương đầu núi buổi chiều như giội, Nước lòng khe nẻo suối còn sâu. Thương người áo giáp bấy lâu, Lòng quê qua đó mặt sầu chẳng khuây. Trên trướng gấm thấu hay chăng nhẽ, Mặt chinh phu ai vẽ cho nên ? Tưởng chàng giong ruổi mấy niên, Chẳng nơi Hãn Hải thì miền Tiêu Quan. Đã trắc trở đòi ngàn xà hổ, Lại lạnh lùng những chỗ sương phong. Lên cao trông thức mây lồng, Lòng nào là chẳng động lòng bi thương ! Chàng từ sang Đông Nam khơi nẻo, Biết nay chàng tiến thảo nơi đâu ? Những người chinh chiến bấy lâu, Nhẹ xem tính mệnh như màu cỏ cây. Nức hơi mạnh, ơn dày từ trước, Trải chốn nghèo, tuổi được bao nhiêu ? Non Kỳ quạnh quẽ trăng treo, Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò. Hồn tử sĩ gió ù ù thổi, Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi. Chinh phu tử sĩ mấy người, Nào ai mạc mặt, nào ai gọi hồn. Dấu binh lửa, nước non như cũ, Kẻ hành nhân qua đó chạnh thương. Phận trai già ruổi chiến trường, Chàng Siêu tóc đã điểm sương mới về. Tưởng chàng trải nhiều bề nắng nỏ, Ba thước gươm, một cỗ nhung yên. Xông pha gió bãi trăng ngàn, Tên reo đầu ngựa, giáo dan mặt thành. Áng công danh trăm đường rộn rã, Những nhọc nhằn nào đã nghỉ ngơi. Nỗi lòng biết ngỏ cùng ai, Thiếp trong cánh cửa, chàng ngoài chân mây. Trong cửa này đã đành phận thiếp, Ngoài mây kia há kiếp chàng vay ? Những mong cá nước sum vầy, Nào ngờ đôi ngả nước mây cách vời. Thiếp chẳng tưởng ra người chinh phụ, Chàng há từng học lũ vương tôn. Cớ sao cách trở nước non, Khiến người thôi sớm thôi hôm những sầu. Khách phong lưu đương chừng niên thiếu, Sánh nhau cùng dan díu chữ duyên. Nỡ nào đôi lứa thiếu niên, Quan sơn để cách, hàn huyên bao đành. Thuở lâm hành oanh chưa bén liễu, Hỏi ngày về, ước nẻo quyên ca. Nay quyên đã giục, oanh già, Ý nhi lại gáy trước nhà líu lo. Thuở đăng đồ, mai chưa dạn gió, Hỏi ngày về, chỉ độ đào bông. Nay đào đã quyến gió Đông, Phù dung lại đã bên sông bơ sờ. Hẹn cùng ta: Lũng Tây nham ấy, Sớm đã trông, nào thấy hơi tăm ? Ngập ngừng, lá rụng cành trâm, Thôn trưa nghe dậy tiếng cầm lao xao. Hẹn nơi nao, Hán Dương cầu nọ, Chiều lại tìm, nào thấy tiêu hao ? Ngập ngừng gió thổi chéo bào, Bãi hôm tuôn dẫy nước trào mênh mông. Tin thường lại, người không thấy lại, Gốc hoa tàn đã trải rêu xanh. Rêu xanh mấy lớp chung quanh, Sân đi một bước, trăm tình ngẩn ngơ. Thư thường tới, người không thấy tới, Bức rèm thưa lần dãi bóng dương. Bóng dương mấy buổi xuyên ngang, Lời sao mười hẹn, chín thường đơn sai. Thử tính lại diễn khơi ngày ấy, Tiền sen này đã nẩy là ba. Xót người lần lữa ải xa, Xót người nương chốn Hoàng Hoa dặm dài. Tình gia thất nào ai chẳng có, Kìa lão thân, khuê phụ nhớ thương. Mẹ già phơ phất mái sương, Con thơ măng sữa, vả đương phù trì. Lòng lão thân buồn khi tựa cửa, Miệng hài nhi chờ bữa mớm cơm. Ngọt bùi thiếp đã hiếu nam, Dạy con đèn sách thiếp làm phụ thân. Nay một thân nuôi già dạy trẻ, Nỗi quan hoài mang mể biết bao ! Nhớ chàng trải mấy sương sao, Xuân từng đổi mới, Đông nào còn dư. Kể năm đã ba tư cách diễn, Mối sầu thêm nghìn vạn ngổn ngang. Ước gì gần gũi tấc gang, Giải niềm cay đắng để chàng tỏ hay. Thoa cung Hán thuở ngày xuất giá, Gương lầu Tần dấu đã soi chung. Cậy ai mà gửi tới cùng, Để chàng thấu hết tấm lòng tương tư. Nhẫn đeo tay mọi khi ngắm nghía, Ngọc cài đầu thuở bé vui chơi. Cậy ai mà gửi tới nơi, Để chàng trân trọng dấu người tương thân. Trải mấy xuân, tin đi tin lại, Tới xuân này tin hãy vắng không. Thấy nhàn, luống tưởng thư phong, Nghe hơi sương, sắm áo bông sẵn sàng. Gió tây nổi không đường hồng tiện, Xót cõi ngoài tuyết quyến mưa sa. Màn mưa trướng tuyết xông pha, Nghĩ thêm lạnh lẽo kẻ ra cõi ngoài. Đề chữ gấm, phong thôi lại mở, Gieo bói tiền tin dở còn ngờ. Trời hôm tựa bóng ngẩn ngơ, Trăng khuya nương gối bơ phờ tóc mai. Há như ai, hồn say bóng lẫn, Bỗng thơ thơ thẩn thẩn như không. Trâm cài, xiêm giắt thẹn thùng, Lệch làn tóc rối, lỏng vòng lưng eo. Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước, Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen. Ngoài rèm thước chẳng mách tin, Trong rèm dường đã có đèn biết chăng ? Đèn có biết, dường bằng chẳng biết, Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi. Buồn rầu nói chẳng nên lời, Hoa đèn kia với bóng người khá thương ! Gà eo óc gáy sương năm trống, Hoè phất phơ rủ bóng bốn bên. Khắc giờ đằng đẵng như niên, Mối sầu dằng dặc tựa miền bể xa. Hương gượng đốt, hồn đà mê mải, Gương gượng soi, lệ lại chứa chan. Sắt cầm gượng gảy ngón đàn, Dây uyên kinh đứt, phi'm loan ngại chùng. Lòng này gửi gió đông có tiện, Nghìn vàng xin gửi đến non Yên. Non Yên dù chẳng tới miền, Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời. Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu, Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong. Cảnh buồn người thiết tha lòng, Cành cây sương đượm, tiếng trùng mưa phun. Sương như búa bổ mòn gốc liễu, Mưa dường cưa xẻ héo cành ngộ Giọt sương phủ bụi chim gù, Sâu tường kêu vẳng, chuông chùa nện khơi. Vài tiếng dế nguyệt soi trước ốc, Một hàng tiêu gió thốc ngoài hiên. Lá màn lay ngọn gió xuyên, Bóng hoa theo bóng nguyệt lên trước rèm. Hoa giãi nguyệt, nguyệt in một tấm, Nguyệt lồng hoa, hoa thắm từng bông. Nguyệt hoa, hoa nguyệt trùng trùng, Trước hoa, dưới nguyệt, trong lòng xiết đau. Đâu xiết kể, muôn sầu nghìn não, Từ nữ công, phụ xảo đều nguôi. Biếng cầm kim, biếng đưa thoi, Oanh đôi thẹn dệt, bướm đôi ngại thùa. Mặt biếng tô, miệng càng biếng nói, Sớm lại chiều, dòi dõi nương song. Nương song luống ngẩn ngơ lòng, Vắng chàng điểm phấn trang hồng với ai ? Biếng trang điểm, lòng người sầu tủi, Xót nỗi chàng, ngoài cõi Giang Lăng. Khác gì ả Chức, chị Hằng, Bến Ngân sùi sụt, cung trăng chốc mòng. Sầu ôm nặng, hãy chồng làm gối, Buồn chứa đầy, hãy thổi làm cơm. Mượn hoa, mượn rượu giải buồn, Sầu làm rượu nhạt, muộn làm hoa ôi. Gõ sanh ngọc mấy hồi không tiếng, Ôm đàn tranh mấy phi'm rời tay. Xót người hành dịch bấy nay, Dặm xa mong mỏi hết đầy lại vơi. Ca quyên ghẹo, làm rơi nước mắt, Trống tiều khua, như rứt buồng gan. Võ vàng đổi khác dung nhan, Khuê ly mới biết tân toan dường này. Nếm chua cay tấm lòng mới tỏ, Chua cay này, há có vì ai ? Vì chàng lệ thiếp nhỏ đôi, Vì chàng thân thiếp lẻ loi một bề. Thân thiếp chẳng gần kề dưới trướng, Lệ thiếp nào chút vướng bên khăn. Duy còn hồn mộng được gần, Đêm đêm thường đến Giang Tân tìm người. Tìm chàng thuở Dương Đài lối cũ, Gặp chàng nơi Tương Phố bến xưa. Sum vầy mấy lúc tình cờ, Chẳng qua trên gối một giờ mộng Xuân. Giận thiếp thân lại không bằng mộng, Được gần chàng bến Lũng, thành Quan. Khi mơ những tiếc khi tàn, Tình trong giấc mộng, muôn vàn cũng không ! Duy có một tấm lòng chẳng dứt, Vốn theo chàng giờ khắc nào nguôi. Lòng theo nhưng chửa thấy người, Lên cao mấy lúc trông vời bánh xe. Trông bến Nam, bãi che mặt nước, Cỏ biếc um, dâu mướt ngàn xanh. Nhà thôn mấy xóm chông chênh, Một đàn cò đậu trước ghềnh chiều hôm. Trông đường Bắc, đôi chòm quán khách, Mây rà cây xanh ngất núi non. Lúa thành thoi thóp bên cồn, Nghe thôi ngọc địch véo von bên lầu. Non Đông thấy lá hầu chất đống, Trĩ xập xoè, mai cũng bẻ bai. Khói mù nghi ngút ngàn khơi, Con chim bạt gió lạc loài kêu thương. Lũng Tây thấy nước dường uốn khúc, Nhạn liệng không, sóng giục thuyền câu. Ngàn thông chen chúc chòm lau, Cách duềnh thấp thoáng người đâu đi về. Trông bốn bề chân trời mặt đất, Lên xuống lầu thấm thoát đòi phen. Lớp mây ngừng mắt ngại nhìn, Biết đâu chinh chiến là miền Ngọc Quan ? Gậy rút đất dễ khôn học chước, Khăn gieo cầu nào được thấy tiên. Lòng này hóa đá cũng nên, E không lệ ngọc mà lên trông lầu. Lúc ngoảnh lại ngắm màu dương liễu, Thà khuyên chàng đừng chịu tước phong. Chẳng hay muôn dặm ruổi giong, Lòng chàng có cũng như lòng thiếp chăng ? Lòng chàng ví cũng bằng như thế, Lòng thiếp đâu dám nghĩ gần xa. Hướng dương lòng thiếp như hoa, Lòng chàng lẩn thẩn e tà bóng dương. Bóng dương để hoa vàng chẳng đoái, Hoa để vàng bởi tại bóng dương. Hoa vàng hoa rụng quanh tường, Trải xem hoa rụng đêm sương mấy lần. Chồi lan nọ trước sân đã hái, Ngọn tần kia bên bãi đưa hương. Sửa xiêm dạo bước tiền đường, Ngửa trông xem vẻ thiên chương thẩn thờ. Bóng Ngân Hà khi mờ khi tỏ, Độ Khuê Triền buổi có buổi không. Thức mây đòi lúc nhạt nồng, Chuôi sao Bắc Đẩu thôi Đông lại Đoài. Mặt trăng tỏ thường soi bên gối, Bừng mắt trông sương gội cành ngô. Lạnh lùng thay bấy chiều thu, Gió may hiu hắt trên đầu tường vôị . Một năm một nhạt mùi son phấn, Trượng phu còn thơ thẩn miền khơi. Xưa sao hình ảnh chẳng rời, Bây giờ nỡ để cách vời Sâm Thương. Chàng ruổi ngựa dặm trường mây phủ, Thiếp dạo hài lầu cũ rêu in. Gió Xuân ngày một vắng tin, Khá thương lỡ hết mấy phen lương thì. Xảy nhớ khi cành Diêu đóa Ngụy, Trước gió xuân vàng tía sánh nhau. Nọ thì ả Chức chàng Ngâu, Tới trăng thu lại bắc cầu sang sông. Thương một kẻ phòng không luống giữ, Thời tiết lành lầm lỡ đòi nau. Thoi đưa ngày tháng ruổi mau, Người đời thấm thoắt qua màu xuân xanh. Xuân thu để giận quanh ở dạ, Hợp ly đành buồn quá khi vui. Oán sầu nhiều nỗi tơi bời, Vóc bồ liễu dễ ép nài chiều xuân. Kìa Văn Quân mỹ miều thuở trước, E đến khi đầu bạc mà thương. Mặt hoa nọ gã Phan Lang, Sợ khi mái tóc pha sương cũng ngừng. Nghĩ nhan sắc đương chừng hoa nở, Tiếc quang âm lần lữa gieo qua. Nghĩ mệnh bạc, tiếc niên hoa, Gái tơ mấy chốc xảy ra nạ giòng. Gác nguyệt nọ mơ màng vẻ mặt, Lầu hoa kia phảng phất hơi hương. Trách trời sao để lỡ làng, Thiếp rầu thiếp lại rầu chàng chẳng quên. Chàng chẳng thấy chim uyên ở nội, Cũng dập dìu, chẳng vội phân trương. Chẳng xem chim yến trên rường, Bạc đầu không nỡ đôi đường rẽ nhau. Kìa loài sâu đôi đầu cùng sánh, Nọ loài chim chắp cánh cùng bay. Liễu, sen là thức cỏ cây, Đôi hoa cùng sánh, đôi dây cùng liền. Ấy loài vật tình duyên còn thế, Sao kiếp người nỡ để đấy đây ? Thiếp xin muôn kiếp sau này, Như chim liền cánh, như cây liền cành. Đành muôn kiếp chữ tình đã vậy, Theo kiếp này hơn thấy kiếp sau. Thiếp xin chàng chớ bạc đầu, Thiếp thì giữ mãi lấy màu trẻ trung. Xin làm bóng theo cùng chàng vậy, Chàng đi đâu cũng thấy thiếp bên. Chàng nương vầng nhật, thiếp nguyền, Mọi bề trung hiều thiếp xin vẹn tròn. Lòng hứa quốc tựa son ngăn ngắt, Sức tý dân dường sắt tri tri. Máu Thuyền Vu, quắc Nhục Chi, Ấy thì bữa uống, ấy thì bữa ăn. Mũi đòng vác đòi lần hăm hở, Đã lòng trời gìn giữ người trung. Hộ chàng trăm trận nên công, Buông tên ải Bắc, treo cung non Đoài. Bóng kỳ xí giã ngoài quan ải, Tiếng khải ca trở lại Thần Kinh. Đỉnh non khắc đá đề danh, Triều thiên vào trước cung đình dâng công. Nước duềnh Hán việc đòng rửa sạch, Khúc nhạc từ réo rắt lừng khen. Tài so Tần, Hoắc vẹn tuyền, Tên ghi gác Khói, tượng truyền đài Lân. Nền huân tướng đai cân rạng vẻ, Chữ đồng hưu bia để nghìn đông. Ơn trên tử ấm thê phong, Hiển vinh thiếp cũng đượm chung hương trời. Thiếp chẳng dại như người Tô Phụ, Chàng hẳn không kém lũ Lạc Dương. Khi về chẳng quả ấn vàng, Trên khung cửi dám dẫy duồng làm cao. Xin vì chàng xếp bào cởi giáp, Xin vì chàng giũ lớp phong sương. Vì chàng tay chuốc chén vàng, Vì chàng điểm phấn đeo hương não nùng. Giở khăn lệ, chàng trông từng tấm, Đọc thơ sầu, chàng thẩm từng câu. Câu vui đổi với câu sầu, Rượu khà cùng kể trước sau mọi lời. Sẽ rót vơi lần lần từng chén, Sẽ ca dần ren rén đòi liên. Liên ngâm đối ẩm đòi phen, Cùng chàng lại kết mối duyên đến già. Cho bõ lúc xa sầu, cách nhớ, Giữ gìn nhau vui thuở thanh bình. Ngâm nga mong gửi chữ tình, Dường này âu hẳn tài lành trượng phu !

Phân tích bài thơ Nhớ rừng của Thế Lữ

Thế Lữ(1907-1989), bút hiệu này là lấy từ tên thật Thứ Lễ nói trại lại, ẩn ý chỉlà "Quán trọ thế nhân". Ông viết bài thơ theo cảm xúc về thân thế và sự nghiệp của Nguyễn Tường Tam, ...thật mãnh liệt to lớn đầy hoài bão, nhưng không bắt nắm đượccơ hội hay thời cơ, để rồi trở thành con hổ bị nhốt vào chuồng thú "làm trò lạ mắt, thứđồ chơi." Gặm một khối căm hờn trong cũi sắt, Ta nằm dài, trông ngày tháng dần qua. Khinh lũ người kia ngạo mạn, ngẩn ngơ, Giương mắt bé riễu oai linh rừng thẳm Nay sa cơ, bị nhục nhằn tù hãm Để làm trò lạ mắt, thứ đồ chơi. Thái độ của con hổ bị giam là một sự tha hóa lãng mạn cho chính nó, khi bốnbức tường vây nhục nhã, không thoát, chỉ còn một chỗ nương ẩn là nhớ về một thuở"hồng hoang", nơi đó ẩn hiện vóc dáng "hùm thiêng" cái thời mà: Ta bước chân lên, dõng dạc, đường hoàng, Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng, Vờn bóng âm thầm, lá gai, cỏ sắc. Trong hang tối, mắt thần khi đã quắc Là khiến cho mọi vật đều im hơi. Ta biết ta chúa tể muôn của loài Giữa chốn thảo hoa, không tên không tuổi. "Ta bước chân lên, dõng dạc, đường hoàng.../ nhưng: ...Giữa chốn thảo hoa,không tên không tuổi", sao mà cô đơn lạnh lùng, khi mà quyền uy đạt đến điểm caonhất, Thì chính nó trở thành "Đỉnh gió hú", chỉ còn lại mình ta "không tên khôngtuổi", đã làm cho vạn vật bị tan biến...Thì chính lúc ta quay về với chốn trơ vơ cùng tận.Cùng thời, Xuân Diệu cũng có những vần thơ lưu đậm dấu vết như trong bàithơ "Hi Mã Lạp Sơn", chỉ ra cái bi kịch, khi tưởng mình trên đỉnh cao, thì chính là lúcta "rơi ngoài", hiện tượng này ai trải qua đều thấy: Ta là Một, là Riêng, là Thứ Nhất Không có chi bè bạn nổi cùng ta ... Ta bỏ đời, mà đời cũng bỏ ta Giữa vắng ngắt, giữa lạnh lùng thế tuyệt! Cái thi vị ẩn dụ nằm trong "thơ mới" là để chỉ ra cái tính bó rọ của "thơ cổ" ,như đời người của một thời đoạn trong đó sự tác động tính người chỉ là sự "có đến thìphải có đi", cố níu kéo thì nó bị vây hãm như con hổ kia, rồi sẽ bị nhận chìm..., quantrọng ở đó nếu không biết nắm bắt sẽ không tồn tại, như thơ mới/thơ cũ tranh luận...,của nền thi ca Việt trước 1945, có những cằn cựa làm nền cho sáng tạo tiến bộ quanhững thời kỳ hạn định, mà con người tác động như một lữ khách trong cuộc hànhtrình trường kỳ "không thủy không chung!?" nhưng nối liền, trong một tiến trình phóng tới, không có thắng bại mà sự kế thừa của giai đoạn dồn nén năng lực của cái trước đẩy ùa cho cái sau: Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn Ta lặng ngắm giang san ta đổi mới? Sự biến động liên hồi của thế quang, con hổ của Thế Lữ nhớ lại giang sơn xưa như một hoài niệm và đâu đây vang vọng của "một thời vang bóng" đã phủ trùm màn đêm " Quạnh hơi thu lau lách đìu hiu" rồi đây theo luật tuần hoàn di dịch cũng phải đi qua!....Dùng một con vật hoang dã để nói về cuộc đời của con người là điều không hềdễ dàng gì. Trong cái bối cảnh xã hội đầy biến đổi, chỉ có những nghệ sĩ là có nhữngcảm nhận tinh tế bậc nhất, mà chúng được thể hiện đầy đủ trong thơ văn, ca từ. ThếLữ đã tạo một cảm giác bất ngờ, khi đọc lên những vần thơ "Nhớ Rừng", mà trong đó,chú cọp ngông nghênh đang bị nhốt ...Rõ ràng là lời của một chú hổ được nhân hóa kể lại : Gậm một khối căm hờn trong cũi sắt, Ta nằm dài, trông ngày tháng dần qua. Khinh lũ người kia ngạo mạn, ngẩn ngơ, Giương mắt bé diễu oai linh rừng thẳm, Nay sa cơ, bị nhục nhằn tù hãm, Để làm trò lạ mắt, thứ đồ chơi. Chịu ngang bầy cùng bọn gấu dở hơi, Với cặp báo chuồng bên vô tư lự. Trong cổ chú có một "cục" - rất to lớn - cục tức trong họng. Cái cục tức đó trấnáp cả cái tâm của chú hổ. Để rồi chú nằm dài, chẳng biết làm việc gì để "nhìn thờigian trôi". Một kẻ tù đày lại còn tâm trạng để "khinh rẻ" lũ người "ngạo mạn" ? Chúhổ cảm thấy mình rất vĩ đại, không bao giờ chịu ngang hàng với "bọn gấu, bọn báo"trong khi bị tù hãm. Trong thế giới con người, chúng đều là những loài vật rừng,không hề có sự so sánh khác biệt đến thế. Nhưng ta không biết được, từ sâu thẳmlòng, chúng đã biết mình là một phần không thể không có của vũ trụ. Ta sống mãi trong tình thương nỗi nhớ, Thủa tung hoành hống hách những ngày xưa. Nhớ cảnh sơn lâm, bóng cả, cây già, Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núi, Với khi thét khúc trường ca dữ dội, Ta bước chân lên, dõng dạc, đường hoàng, Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng, Vờn bóng âm thầm, lá gai, cỏ sắc. Trong hang tối, mắt thần khi đã quắc Là khiến cho mọi vật đều im hơi, Ta biết ta chúa tể của muôn loài Giữa chốn thảo hoa không tên, không tuổi. Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối, Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan? Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn, Ta lặng ngắm giang san ta đổi mới? Đâu những bình minh cây xanh nắng gội, Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng? Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng. Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt, Để ta chiếm lấy riêng phần bí mật? -- Than ôi! thời oanh liệt nay còn đâu? Chú nhớ, nhớ đến tất cả những gì chú thống trị, là cả một giang sơn rộng lớn.Tất cả đều là những biểu tượng của một vị chú tể muôn loài. Tù đày, biết làm chi đây? Lúc trước tự do, ta đây có thể làm tất cả những điều mình thích, bất kì kẻ nào cũngphải phục tùng. Một chút tinh tế pha vào lời văn : "uống trăng tan". Quả thực, ảnh trăng vàng chiếu bóng xuống nước, đến nỗi chú hổ "lỡ" uống vào. Không hiểu đó làsự chinh phục to tát, hay là sự ngây ngô của chú hổ chúa tể ? Một lời than ai oán, "thời oanh liệt nay còn đâu". Rõ ràng là chú còn rất nhiều hoài bão cần thực hiện, nhưng chỉmột gian tù đã làm chú khổ sở mọi bề ... Nay ta ôm niềm uất hận ngàn thâu, Sống những cảnh không đời nào thay đổi, Những cảnh sửa sang, tầm thường, giả dối: Hoa chăm, cỏ xén, lối phẳng, cây trồng; Giải nước đen giả suối, chẳng thông dòng Len dưới nách những mô gò thấp kém; Dăm vừng lá hiền lành không bí hiểm, Cũng học đòi bắt chước vẻ hoang vu Của chốn ngàn năm cao cả âm u. Hỡi oai linh, cảnh nước non hùng vĩ! Là nơi giống hùm thiêng ta ngự trị. Nơi thênh thang ta vùng vẫy ngày xưa Nơi ta không còn được thấy bao giờ Có biết chăng trong những ngày ngao ngán, Ta đương theo giấc mộng ngàn to lớn Để hồn ta phảng phất được gần ngươi, -- Hỡi cảnh rừng ghê gớm của ta ơi! Trong lòng của chú, một nỗi niềm nữa lại cất lên. Đó là lời mơ mộng của mộtchú cọp, hay đúng hơn là một vị chúa tể. Chú cất tiếng gọi giang sơn của mình, nhưngchú biết những điều mà chú tơ tưởng sẽ không bao giờ hiện thực hóa được. Chỉ còncách tự bản thân cảm nhận được cái hồn của giang sơn, để tự mình cai quản. Để ấp ủ bao ước vọng ...Một con người thực thụ, phải chăng ? Dù trong cảnh tù đày, nhưng hãy biết hi sinh và làm gì đó trong khoảng thời gian này, để cuộc sống thêm ý nghĩa, không nhạt màu đi

phân tích bài thơ Nguyên tiêu của Hồ Chí Minh

Trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đã giấy lên một phong trào " mỗi người làm việc bằng hai" vừa xây dựng miền Bắc, vừa chi viện cho chiến trường tiền tuyến miền nam. Khắp nơi mọi người ra sức lao động không quản ngày đêm, khổ cực. Với tinh thần đó, các nhà văn, nhà thơ đã đi sát với cuộc sống của những người lao động để phản ánh và ca ngợi họ. Trong đó, tác phẩm để lại được nhiều ấn tượng nhất, có lẽ là " Đoàn thuyền đánh cá" của Huy Cận. Mở đầu bài thơ là hình ảnh đoàn thuyền ra khơi : " Mặt trời xuống biển như hòn lửa Sóng đã cài then đêm sập cửa Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi Câu hát căng buồm cùng gió khơi" Bằng giọng thơ gân guốc, với cặp mắt quan sát tinh tế, tác giả đã chọn một thời điểm hết sức đặc biệt đó là lúc hoàng hôn. Mặt trời từ từ lặn sâu xuống lòng biển được tác giả ví như " hòn lửa". Với cách so sánh này, làm hiện ra trước mặt người đọc một không gian huy hoàng và tráng lệ làm ngây ngất lòng người. Nhưng không gian đẹp đẽ ấy cũng chỉ diễn ra trong chốc lát rồi nhường chỗ cho màn đêm lan tỏa. Với nghệ thuật nhân hóa " sóng cài then, đêm sập cửa" đã thể hiện sự dứt khoát về chuyển giao không gian. Sau một ngày làm việc vất vả, vũ trụ đã đi vào nghỉ ngơi, thư giãn. Trong hoàn cảnh đó, con người lại bắt tay vào lao động. Sự đối lập giữa thiên nhiên và con người cùng với các biện pháp nghệ thuật độc đáo đã tạo nên một không gian lộng lẫy, gợi bao cảm xúc cho người đọc. "Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi", thể hiện rõ nét đây không phải là lần đầu đi biển mà công việc đó được lặp đi lặp lại một cách đều đặn, thường xuyên. Phải nói rằng, đi đánh cá trên biển đã trở thành nền nếp, không phải của con thuyền mà của cả đoàn thuyền. Họ ra đi với tinh thần đoàn kết, phấn khởi, lạc quan, khí thế khẩn trương trong lao động. Tinh thần đó được thể hiện qua câu hát khỏe khoắn, lời hát của họ như hòa vào trong gió, thổi căng buồm đẩy con thuyền thẳng tiến ra khơi. Ở khổ thơ tiếp theo, tác giả miêu tả nổi bật về nét đẹp của người dân làng chài : " Hát rằng cá bạc biển đông lặng Cá thu biển đông như đoàn thoi Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng Đến dệt lưới ta đoàn cá ơi" Câu hát của những người đi biển, nó không những thể hiện được tâm hồn lạc quan và khí thế khẩn trương mà còn nói lên niềm mong ước của con người. Đi đánh cá từ ngàn đời này may rủi là chuyện thường tình. Vì vậy, trong câu hát ta đọc được những ước mong của họ. Đó là ước mong về trời yên biển lặng, gặp được luồng cá để đánh bắt được nhiều. Giọng điệu lời thơ như ngân lên ngọt ngào, ngân dài và xa mãi. Các hình ảnh của cá được so sánh, ẩn dụ là những nét snags tạo độc đáo đem đến cho người đọc một cảm nhận thứ vị về con người lao động trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Ở khổ thơ thứu ba là hình ảnh con thuyền với cảnh đánh bắt cá trên biển : Thuyền ta lái gió với buồm trăng Lướt giữa may cao với biển bằng Ra đậu dặm xa dò bụng biển Dàn đan thế trận lưới vây giăng Có thể nói rằng, toàn bộ khổ thơi là một bức tranh sơn mà lộng lẫy. Tất cả các hình ảnh : mây, nước, sao, trời được vẽ nên bằng ngôn ngữ lung linh, huyền ảo. Đặc biệt là hình ảnh con thuyền vừa có tính hiện thực lại vừa mang vẻ đẹp lãng mạn. " Lái gió" " buồm trăng" - đọc câu thơ, ta có cảm nhận thiên nhiên cũng góp phần vào công cuộc đánh bắt. Trăng sao như soi rõ hơn cho con người phát hiện ra luồng cá. Giữa biển trơi mênh mông, trời và biển như hòa vào một. Còn đối với người dân chai, tác giả miêu tả họ với tinh thần làm chủ biển khơi. Họ chủ động, sáng tạo trong lao động, bố trí đánh bắt cá như một trận đánh. Với tinh thần lao động hang hái, lạc quan như thế, thì chắc chắn hiệu quả sẽ cao hơn. Ở khổ thơ thứu tư, tác giả dành riêng để miêu tả sự giàu có của biển cả : Cá nhụ cá chim cùng cá đé Cá song lấp lánh đuộc đen hồng Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe Đêm thở, sao lùa nước Hạ Long Nếu như cả bài thơ là một bức tranh sáng tạo về không khí lao động của những người đi biển, thì chi tiết về đàn cá là một sáng tạo đặc sắc. Các biện pháp nghệ thuật ở đây được sử dụng một cách linh hoạt, làm người đọc cảm thấy được sự giàu có của biển cả. Hình ảnh cá được miêu tả mơ mộng làm sao : " cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe". Trong cái giàu có đó, ta nghe được nhịp thở của biển khơi : " Đêm thở sao lùa nước Hạ Long". Có thật sự yêu mến biển, yêu con người lao động thì nhà thơ mới có được những hình ảnh đẹp, những cau thơ hay đến như vậy. Ở khổ thơ tiếp theo, là hình ảnh bao dung của biển: Ta hát bài ca gọi cá vào Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao Biển cho ta cá như lòng mẹ Nuôi lớn đời ta tự buổi nào Nếu như mở đầu bài thơ là tiếng hát căng buồm khi ra khơi thì ở đây lại là khúc ca gọi cá. Tiếng hát được vang lên trong những giờ lao động, xua đinh những khó nhọc và làm khô đi những giọt mồ hôi. Trong hương vị mặn mòi của biển, lời hát như khích lệ, giúp cho thành quả lao động được cao hơn. Biển trong khổ thơ này được miêu tả hết sức bao dung và nhân hậu " cho ta cá như lòng mẹ". Người dân chai gắn liền cuộc đời mình với biển cả, vì thế biển đối với họ thật gần gũi, thân thiết biết bao. Sau một đêm lao động vất vả khẩn trương, họ đã gặt hái được những thành quả lao động xứng đáng : Sao mờ kéo lưới kịp trời sáng Ta kéo xoăn tay chum cá nặng Vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đông Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng Thời gian trôi nhanh, sau một đêm dài miệt mài trong lao động, thế nhưng tình thần của những người đi biển vẫn không hề giảm sút. Họ hang hái thu hoạch những mẻ cá đầy khoang. Vì sao vậy ? Phải chăng sau một đêm vất vả, họ đã thu được thắng lợi lơn " chùm cá nặng". Hình ảnh những con cá trên khoang thuyền được miêu tả sao mà đẹp thế " vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đông". Phải chăng đây chính là tương lai của những người đi biển, tương lai do chính bàn tay họ tạo nên. Phần cuối bài thơlà hình ảnh đoàn thuyền đánh cá trở về : Câu hát căng buồm cùng gió khơi Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời Mặt trời đội biển nhô màu mới Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi. Một điều người đọc dễ nhận thấy nhất đó là câu hát được cất lên từ lúc ra đi cho đến lúc trở về. Những câu hát khi trở về thể hiện rõ một niềm hân hoan, phấn khởi. Cảnh rạng đông và mặt trời từ từ đổi biển nhô lên thật tuyệt diệu. Và, tuyệt diệu hơn cả đó là đoàn thuyền trở về với cá đầy khoang. Hình ảnh con thuyền trở về được miêu tả khẩn trương như lúc ra đi : " đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời". Phải chăng ở đây, những người đi biển đang chạy đua với thời gian để chuẩn bị cho đợt ra biển tiếp theo. Những người lao động không thỏa mãn với những kết quả đạt được. Vì vậy, họ phải chạy đua với thời gian để làm ra được nhiều của cải hơn cho đất nước. Cảnh bình minh thật huy hoàng nhưng người lao động không kịp ngắm nó, hầu như mọi tâm trí của họ chỉ tập trung vào công việc lao động. Đây chính là tinh thần lao động của nhân dân ta trong thời kì xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Với giọng thơ khỏe mạnh, kết hợp với cách sử dụng các biện pháp nghệ thuật nhân hóa, hoán dụ tài tình, nàh thơ đã vẽ lên được một bức tranh tuyệt đẹp về cảnh đoàn thuyền đánh cá trở về lúc bình mình. Công cuộc xây dựng CNXH ở miền Bắc đã đi qua. Nhưng mỗi lần đọc lại bài " đoàn thuyền đánh cá" ta như thấy hiện ra trước mắt tinh thần lao động khẩn trương của những con người không quản ngày đếm để làm ra được thêm nhiều của cải cho đất nước. Cả bài thơ là một bức tranh tuyệt đẹp, đẹp về cảnh thiên nhiên, đẹp về tinh thần lao động. Đó là thành công nhất của nhà thơ Huy Cận trong tác phẩm này.

Thuyết minh về tác phẩm Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi

Trong dòng văn học ca ngợi truyền thống yêu nước xuyên suốt lịch sử văn học Việt Nam, chúng ta không thể không nhắc tới các tác phẩm của Nguyễn Trãi , một anh hùng dân tộc, một con người có nhân cách lớn, nhà tư tưởng vĩ đại được suy tôn là danh nhân văn hóa của nhân loại. Trong đó, "Bình Ngô đại cáo" của Nguyễn Trãi được đánh giá là áng "thiên cổ hùng văn", luôn được nhiều thế hệ người Việt luôn yêu thích, tự hào. "Bình Ngô đại cáo" được Nguyễn Trãi thừa lệnh Lê Lợi viết vào khoảng đầu năm 1428 nhằm tổng kết cuộc kháng chiến chống giặc Minh xâm lược, kể về quá trình kháng chiến gian khổ, hi sinh nhưng thắng lợi vẻ vang, ngợi ca lòng yêu nước, tinh thần nhân nghĩa và tài trí thao lược của quân ta. Đây là tác phẩm tiêu biểu cho thể loại "cáo"- một thể loại văn chính luận tiêu biểu của văn học Trung đại Việt Nam. Nhan đề tác phẩm có‎ ý nghĩa là bài cáo trọng đại tuyên bố về việc dẹp yên giặc Ngô(chỉ giặc Minh xâm lược).Bài cáo gồm bốn phần. Phần đầu tiên, tác giả nêu cao luận đề chính nghĩa của cuộc kháng chiến .Tác giả đã khẳng định nghĩa quân Lam Sơn chiến đấu chống giặc Minh là để nhân dân có cuộc sống yên bình, ấm no, là để diệt trừ thế lực tham tàn,bạo ngược và đó là việc làm nhân nghĩa... "Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân, Quân điếu phạt trước lo trừ bạo" Sau đó, NT còn khẳng định,nước ta còn là 1 nước độc lập,có chủ quyền,lãnh thổ,phong tục và triều đại riêng: "Như nước Đại Việt ta từ trước, Vốn xưng nền văn hiến đã lâu". Bằng những lý lẽ chặt chẽ,cho thấy tác giảđã khẳng định nghĩa quân Lam Sơnchống lại giặc Minh là việc làm nhân nghĩa,hợp với lòng dân,hợp với quy luật, đó là chính nghĩa,việc làm đó xuất phát từ tư tưởng yêu nước, thương dân . Phần thứ hai của bài cáo, tác giả đã vạch trần, tố cáo tội ác dã man của giặc Minh xâm lược. Nhắc đến giặc.Minh chúng ta không thể quên được 1 số câu chất chứa lòng căm phẫn: "Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn, Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ" ... "Dối trời, lừa dân, đủ muôn nghìn kế Gây binh kết oán, trải hai mươi năm". Tác giảđã liệt kê ra 1 loạt tội ác của giặcMinh,chúng không chỉ có âm mưu xâm lược nước ta, mà còn thực hiện nhiều chính sách thuế má phu phen nặng nề,vơ vét sản vật quý hiếm,diệt sản xuất,sự sống,tàn sát dã man.... Dân ta phải lâm vào cảnh khốn cùng.Từ đó,tác giảđã kết tội giặc Minh : "Độc ác thay,trúc Nam Sơn không ghi hết tội, Dơ bẩn thay,nước Đông hải không rửa sạch mùi" Hơn thế nữa,tác giảcòn bày tỏ thái độ phẫn uất trước những tội ác đó : "Lẽ nào trời đất dung tha, Ai bảo thần nhân chịu được?" Bằng cách lập luận chặt chẽ,lời văn đanh thép và những hình ảnh rất thực có tính khái quát cao,giọng văn linh hoạt.Có thể nói, đoạn 2 này là 1 bảng cáo trạng đanh thép tố cáo tội ác của g.Minh. Đó chính là thế lực bạo tàn cần phải diệt trừ. Tiếp đó,ta không thể không tự hào trước quá trình chiến đấu gian khổ và tất thắng của cuộc khởi nghĩa qua đoạn 3. Đầu tiên,tác giảđã kể về buổi đầu khởi nghĩa,quân ta đã gặp rất nhiều khó khăn: "Vừa khi cờ nghĩa dấy lên, Chính lúc quân thù đương mạnh." Hay trong lúc thế giặc mạnh thì quân ta binh lực yếu kém,có khi lương thực cạn kiệt,quân ta hiếm hoi nhân tài: "Tuấn kiệt như sao buổi sớm, Nhân tài như lá mùa thu." Thế nhưng,nhờ tài lãnh đạo của Lê Lợi,nghĩa quân Lam Sơnđã đoàn kết mộtlòng,vượt qua khó khăn,tạo được sức mạnh. Đó là người lãnh đạo có quyết tâm cao độ,có chiến lược,chiến thuật phù hợp, đề cao sức mạnh của sự đoàn kết, chú trọng mưu cơ hơn binh lược. "Thế trận xuất kì,lấy yếu chống mạnh; Dùng quân mai phục,lấy ít địch nhiều..." Như vậy,người đọc đã cảm nhận được hình tượng Lê Lợiđó là mộtngười có xuất thân dân dã,nhưng có lòng yêu nước sâu sắc,hết lòng lo lắng tận tâm,suy tính đại sự và đã tìm ra cách chiến thắng giặcMinh,tập hợp được sức mạnh của nhân dânđể làm nên chiến thắng.Có thể nói, đoạn này đã khắc họa được hình tượng người anh húng áo vải mộtcách sinh động,toàn diện. Sau đó,tác giảđã kể về những chiến thắng oanh liệt của dân ta qua 3 trận đánh: Thứ nhất,là trận Bồ Đằng-Trà Lân: "Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật, Miền Trà Lân,trúc chẻ tro bay." Thứ hai, là trận Ninh Kiều-Tốt Động: "Ninh Kiều máu chảy thành sông,tanh trôi vạn dặm; Tốt Động thây chất đầy nội,nhơ để ngàn năm." Cuối cùng là trận Chi Lăng-Mã An cho đến Xương Giang: "Ngày 18,trận Chi Lăng,Liễu Thăng thất thế, Ngày 20,trận Mã An,Liễu Thăng cụt đầu," Trong 1 loạt câu văn biền ngãu đó, đã thể hiện khí thế khí thế quân ta rõ nhất qua câu: "Gươm mài đá, đá núi cũng mòn, Voi uống nước,nước sông phải cạn." Tuy nhiên,ta vẫn thể hiện tinh thần nhân đạo với kẻ thù. Đó là tư tưởng nhân nghĩa đã mang 1 tầm cao mới: "Tướng giặc bị cầm tù,như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng; Thần Vũ chẳng giết hại,thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh." Thông qua lối viết liệt kê,hình tượng phong phú đa dạng,dùng nhiều động từ mạnh,các tính từ chỉ mức độ tối đa,lối viết thậm xưng,nhạc điệu dồn dập mạnh mẽ,mang đậm chất anh hùng ca.Trong phần kể về quá trình kháng chiến của nghĩa quân Lam Sơn , tác giả đã dùng lối viết tương phản về lực lượng của ta và địch.Quá đó, tác giảđã bày tỏ được niềm tự hào của hãnh diện về những chiến thắng của quân ta và nêu bật sự thất bại thảm hại của quân thù. Cuối cùng,tác giảđã tuyên bố chiến thắng và khẳng định sự nghiệp chính nghĩa của quân ta đã hoàn toàn thắng lợi.Đến đây,giọng văn của NguyễnTrãiđã nhẹ nhàng hơn,khoan thai .Tg đã tuyên bố nền hoà bình của dân tộcta đã được lập lại, đồng thời cũng rút ra được bài học lịch sủ vàthể hiện niềm tin vào tương lai tươi sáng của đất nước. "Xã tắc từ đây vững bền, Giang sơn từ đây đổi mới." ... "Xa gần bá cáo Ai nấy đều hay" Với nghệ thuật chính luận tài tình,cảm hứng trữ tình sâu sắc Bình Ngô đại cáocó sự kết hợp hài hoà giữa yếu tố chính luận và yếu tố văn chương được xem là áng "thiên cổ hùng văn" của dân tộcta.Hơn thế nữa, "Bình Ngô đại cáo"-Nguyễn Trãilà bản anh hùng ca,ca ngợi sức mạnh của truyền thống yêu nước,tinh thần độc lập nhân nghĩa tự cường,nêu bật sức mạnh của dân ta trong cuộc khởi nghĩa, đập tan cuộc xâm lăng phi lăng phi nghĩa của giặcMinh,mở ra mộtkỷ nguyên mới của độc lập tự do,hoà bình cho lịch sử. Sau khi đọc xong bài cáo,ta thấy rõ "Bình Ngô đại cáo" không chỉ là tác phẩm tiêu biểu cho thể loại văn chính luận của Nguyễn Trãimà ta còn hiểu nhận thực rõ chính lòng yêu nước và tinh thần nhân nghĩa là hai yếu tố quyết định đưa cuộc kháng chiến đến thành công, mở ra kỉ nguyên mới cho dân tộc. Chính ví thế bài cáo được coi là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của dân tộc ta, thể hiện được khát vọng độc lập tự chủ và yêu chuộng hoà bình của toàn dân ta.

Tư tưởng nhân nghĩa trong Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi

Trong lịch sử dân tộc, Nguyễn Trãi (1380 - 1442) là một trí thức lớn, một trong những lãnh tụ kiệt xuất của phong trào khởi nghĩa Lam Sơn. Ông đã có những đóng góp to lớn trong việc hoạch định đường lối, chính sách, chiến lược, sách lược chống quân Minh xâm lược, giải phóng dân tộc. Hơn thế, Nguyễn Trãi còn là một nhà tư tưởng lớn của dân tộc Việt Nam ở thế kỷ XV. Ông đã có công tổng kết, khái quát những vấn đề có tính quy luật của sự nghiệp dựng nước và giữ nước trong điều kiện lịch sử - cụ thể của Việt Nam; từ đó, nâng tư duy của người Việt Nam lên một tầm cao mới. Thông qua các tác phẩm chủ yếu và tiêu biểu của ông, như Quân trung từ mệnh tập, Bình Ngô đại cáo, Ức Trai thi tập, Quốc âm thi tập ta thấy được tư tưởng nhân nghĩa của ông thể hiện rõ ràng, sâu sắc và mới mẻ. Những tư tưởng ấy của Nguyễn Trãi không chỉ có giá trị về mặt lý luận và thực tiễn đối với xã hội đương thời, mà còn có ảnh hưởng sâu sắc trong toàn bộ lịch sử tư tưởng Việt Nam nói chung. Đối với Nguyễn Trãi, nhân nghĩa là một tư tưởng, hơn nữa, là một phương pháp luận hết sức quan trọng. Trong toàn bộ tác phẩm của Nguyễn Trãi mà chúng ta còn lưu giữ được thì chữ "nhân" đã được nhắc đến 59 lần và chữ "nghĩa" - 81 lần. Tổng cộng hai chữ "nhân", "nghĩa" được ông sử dụng đến 140 lần. Qua đó, có thể thấy, một trong những quan điểm nền tảng trong hệ thống tư tưởng của Nguyễn Trãi là "nhân nghĩa". Tất nhiên, ở đây cần nhấn mạnh rằng tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi, mặc dù kế thừa tư tưởng nhân nghĩa của Khổng - Mạnh, nhưng cũng đã có sự khác biệt rất lớn so với tư tưởng Khổng - Mạnh - nó mang ý nghĩa tích cực, mở rộng và nâng cao hơn. ( luận điểm 1) "Từng nghe: Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân Quân điếu phạt trứơc lo trừ bạo" Nhân nghĩa, trong quan điểm của Nguyễn Trãi, trước hết được gắn chặt với tư tưởng vì dân và an dân: "việc nhân nghĩa cốt ở an dân", "dùng quân nhân nghĩa cứu dân khổ, đánh kẻ có tội", "đại đức hiếu sinh, thần vũ bất sát, đem quân nhân nghĩa đi đánh dẹp cốt để an dân". Nhân nghĩa là tinh thần vì dân, là chính nghĩa của nhân dân, mang bản sắc dân tộc. Nhân nghĩa ở đây không phải là lòng thương người một cách chung chung, mà nhân nghĩa là để an dân, trừ bạo ngược để cứu nước,cứu dân. Muốn yên dân thì khi có giặc ngoại xâm trước tiên phải đứng lên chống giặc "trước lo trừ bạo. Nguyễn Trãi đã coi "an dân" là mục đích của nhân nghĩa và "trừ bạo" là đối tượng, là phương tiện của nhân nghĩa. Vì vậy, người nhân nghĩa phải lo trừ "bạo", tức lo diệt quân cướp nước. Người nhân nghĩa phải đấu tranh sao cho "hợp trời, thuận người", nên có thể lấy "yếu chống mạnh", lấy "ít địch nhiều", lấy "đại nghĩa thắng hung tàn", lấy "chí nhân thay cường bạo". Nhân nghĩa là cần phải đấu tranh để cho dân tộc Việt Nam tồn tại và phát triển. Nhân nghĩa giống như là một phép lạ, làm cho "càn khôn đã bĩ mà lại thái, trời trăng đã mờ mà lại trong". Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi , vì vậy, mang đậm sắc thái của tinh thần yêu nước truyền thống của người Việt Nam. Ở đây, có thể thấy rõ tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi đã vượt lên trên tư tưởng nhân nghĩa của Khổng - Mạnh và có sự sáng tạo, phát triển trong điều kiện cụ thể của Việt Nam. Như vậy, với Nguyễn Trãi, tư tưởng nhân nghĩa gắn kết biện chứng với tư tưởng thuận dân, an dân là một yêu cầu cao, một hoài bão lớn, một mục đích chiến lược cần phải đạt tới. Trước Nguyễn Trãi hàng nghìn năm, nhiều nhà tư tưởng trong lịch sử triết học Trung Quốc như Mạnh Tử... đã từng nêu rõ vai trò quan trọng của dân, sức mạnh của dân, tai mắt và trí óc sáng suốt của dân. Ở Việt Nam, tư tưởng an dân đã trở thành một đạo lý vào thời Lý - Trần. Trong thời kỳ đó, những tư tưởng về thân dân, khoan dân, huệ dân, v.v. đã xuất hiện và đã góp phần tích cực vào việc làm cho thời đại Lý - Trần hưng thịnh. Đến Nguyễn Trãi, quan điểm về an dân đã được ông tiếp thu, kế thừa, mở rộng và nâng cao trong suốt thời kỳ hoạt động của mình. An dân có nghĩa là chấm dứt, là loại trừ những hành động tàn ác, bạo ngược đối với dân. An dân còn là sự bảo đảm cho nhân dân có được một cuộc sống yên bình. An dân là không được nhũng nhiễu "phiền hà" dân. Với tư tưởng an dân, Nguyễn Trãi đã đưa ra một chân lý: phải giương cao ngọn cờ "nhân nghĩa, an dân", phải cố kết lòng dân làm sức mạnh của nước, làm thế nước. Ông chủ trương cứu nước bằng sức mạnh của dân, muốn lấy lại được nước phải biết lấy sức dân mà kháng chiến. Đó là một chiến lược bất khả biến, có tính trường tồn, một quy luật dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. Có một khía cạnh rất đáng quý trong tư tưởng về dân của Nguyễn Trãi, đó là tư tưởng trọng dân, biết ơn dân. "Dân chúng" vẫn luôn được ông nhắc tới và chú ý đề cao ngay cả sau khi kháng chiến đã thành công, đất nước đã giành được độc lập và bước vào xây dựng cuộc sống mới. Nguyễn Trãi nhận thức được rằng lực lượng làm ra thóc gạo, cơm ăn, áo mặc là do ở nhân dân; rằng điện ngọc cung vàng của vua chúa cũng đều do mồ hôi nước mắt của nhân dân mà có: "thường nghĩ quy mô lớn lao, lộng lẫy đều là sức lao khổ của quân dân". Chính xuất phát từ suy nghĩ như vậy, nên khi đã làm quan trong triều đình, được hưởng lộc của vua ban, Nguyễn Trãi đã nghĩ ngay đến nhân dân, những người dãi nắng dầm mưa, những người lao động cực nhọc. Ông viết: "Ăn lộc đền ơn kẻ cấy cày". Trong suốt cuộc đời của mình, Nguyễn Trãi đã có cuộc sống gần gũi, gắn bó với nhân dân, hoà mình vào nhân dân. Do đó, ông đã nhận thấy rất rõ những đức tính cao quý của nhân dân, hiểu được nguyện vọng tha thiết của nhân dân, thấy rõ được sức mạnh vĩ đại của nhân dân trong sáng tạo lịch sử. ( luận điểm 2) Nhân nghĩa gắn liền với việc bảo vệ chủquyền đất nước, khẳng định chủ quyền quốc gia, tinh thần độc lập dân tộc: " Như Nước Đại Việt ta từ trước Vốn xưng nền văn hiến đã lâu Núi sông bờ cõi đã riêng Phong tục Bắc Nam cũng khác" là niềm tự hào dân tộc "...hào kiệt đời nào cũng có", là truyền thống yêu chính trực, ghét gian tà, căm thù sâu sắc bọn giặc cướp nước, bán nước: "Quân cuồng Minh đã thừa cơ gây vạ Bọn gian tà bán nước cầu vinh Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn Vùi con đỏ xuống hầm tai vạ" Nhân nghĩa còn là sự chia sẻ, cảm thông với nổi khổ của người dân mất nước: "Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập thuồng luồng Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nổi rừng sâu nước độc .... Nheo nhóc thay kẻ goá bụa khốn cùng" Nhân nghĩa là cội nguồn của cuộc sống. Có nhân nghĩa thì thành công , không nhân nghĩa thì thất bại. Bọn giặc Minh xâm lược đã: "Dối trời, lừa dân đủ muôn nghìn kế Gây binh, kết oán trãi hai mươi năm Bại nhân nghĩa, nát cả đất trời" Họ không có nhân nghĩa vì vậy cho nên phải chịu cảnh " thây chết đầy đường" "máu trôi đỏ nước" " nhơ để ngàn năm" Nhân nghĩa làm nên sức mạnh, vì nhân nghĩa quân ta đã: "Đánh một trận, sạch không kình ngạc, Đánh hai trận, tan tác chim muông" Quân ta chiến thắng vì đã: "Đem đại nghĩa thắng hung tàn Lấy chí nhân thay cường bạo" ( luận điểm 3) Đặc biệt, tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi còn biểu hiện ở lòng thương người, ở sự khoan dung độ lượng, thậm chí đối với cả kẻ thù. Có thể nói, đây là nét độc đáo riêng có trong tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi. Chiến lược "tâm công" Nguyễn Trãi đã thực hiện trong kháng chiến chống Minh chính là sự thể hiện nét độc đáo riêng có ấy. "Tâm công" - đánh vào lòng người - sách lược đã được Nguyễn Trãi dày công suy xét, thu tóm cái tinh hoa trong các sách về binh pháp xưa và vận dụng sáng tạo trong thực tiễn đấu tranh giải phóng dân tộc ở Việt Nam đương thời. "Tâm công" tức là dùng lý lẽ tác động vào tinh thần, vào ý thức kẻ địch, nói rõ điều hơn lẽ thiệt, thuyết phục, cảm hoá chúng, từ đó đập tan tinh thần chiến đấu của chúng, làm cho chúng nhụt ý chí xâm lược, rã rời hàng ngũ, tiến tới chấp nhận con đường hoà giải, rút quân về nước. Tất nhiên, chiến lược "tâm công" ấy luôn được nghĩa quân Lam Sơn kết hợp chiến đấu bằng vũ khí, quân sự, ngoại giao; và thực tiễn lịch sử đã chứng tỏ rằng, chiến lược đó là hoàn toàn đúng đắn. Nhân nghĩa còn là tinh thần yêu chuộng hoà bình, công lý, tình nhân loại , là sự hiếu sinh, hiếu hoà, sự độ lượng bao dung thể hiện tinh thần nhân đạo cao cả của dân tộc ta, đã mở đường hiếu sinh cho kẻ thù khi chúng đã bị bại vong: "Tướng giặc bị cầm tù như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng Thần vũ chẳng giết hại, thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh Mã Kỳ, Phương Chính cấp cho năm trăm chiếc thuyền, ra đến bể mà vẫn hồn bay phách lạc. Vương Thông ,Mã Anh phát cho vài nghìn cổ ngựa, về đến nước mà vẫn tim đập chân run." Họ đã tham sống sợ chết mà hoà hiếu thực lòng Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức" Cuộc kháng chiếnchống quân Minh diễn ra lâu dài với muôn vàn khó khăn gian khổ nhưng thể hiện tinh thần quật khởi của một dân tộc anh hùng. Nguyễn Trãi cũng như Lê Lợi, trong chính sách đối với hàng binh, đã chủ trương không giết để hả giận tức thời, mà còn tạo điều kiện cần thiết cho chúng rút về nước một cách an toàn và không mất thể diện. Trong thư gửi Vương Thông, ông viết: "Cầu đường sửa xong, thuyền xe sắm đủ, hai đường thuỷ lục, tuỳ theo ý muốn, đưa quân ra cõi, yên ổn muôn phần". Theo Nguyễn Trãi: "Trả thù báo oán là thường tình của mọi người; mà không thích giết người là bản tâm của người nhân". Để dân yên vui, nước hoà bình, đó là khát vọng cháy bỏng của Nguyễn Trãi. Bởi thế, ông nói: "Dùng binh cốt lấy bảo toàn cả nước làm trên hết. Để cho bọn Vương Thông trở về nói với vua Minh trả lại đất đai cho ta, đó là điều ta cần không gì hơn thế nữa". "Tuyệt mối chiến tranh", "bảo toàn cả nước là trên hết" đã thể hiện lập trường chính trị nhân nghĩa của Nguyễn Trãi. Có thể nói, đó là một tinh thần nhân đạo cao cả, một triết lý nhân sinh sâu sắc. Chiến lược đánh giặc cứu nước, cứu dân, "mở nền thái bình muôn thuở" bằng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi đã có ý nghĩa rất to lớn cả về mặt lý luận cũng như thực tiễn đấu tranh cứu nước và dựng nước của dân tộc ta. Nguyễn Trãi và Lê Lợi, cùng với quân dân Đại Việt đã kiên quyết thi hành một đường lối kết thúc chiến tranh rất sáng tạo, rất nhân nghĩa: "nghĩ kế nước nhà trường cửu, tha cho mười vạn hùng binh. Gây lại hoà hảo cho hai nước, dập tắt chiến tranh cho muôn đời". Đó thật sự là tư tưởng lớn của một con người có tài "kinh bang tế thế" và là một tư tưởng có sức sống "vang đến muôn đời". Tầm chiến lược, nhìn xa trông rộng và khoa học trong tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi còn được thể hiện ở tư tưởng cầu người hiền tài giúp nước, giúp dân. Nguyễn Trãi quan niệm rằng, nhân tố quyết định sự nghiệp xây dựng đất nước thái bình, thịnh trị là nhân dân, Nguyễn Trãi đã rất chú trọng đến việc đào tạo, bồi dưỡng, phát triển và sử dụng nhân tài vào việc trị quốc, an dân. Có thể nói, chiến lược con người của Nguyễn Trãi, cho đến nay, vẫn mang đậm tính thời sự đối với chúng ta. Tư tưởng nhân nghĩa trong " Bình Ngô đại cáo " thể hiện tinh thần nhân bản và giá trị nhân văn sâu sắc, là kim chỉ nam cho đường lối chính trị và quân sự của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Tư tưởng đó đã giúp cho Lê Lợi giương cao ngọn cờ chính nghĩa, hiệu triệu quần chúng tham gia đánh đuổi giặc Minh. Nó biến thành sức mạnh to lớn đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn.

phân tích bài thơ Khi con tu hú của Tố Hữu

Tố Hữu sáng tác bài thơ Khi con tu hú tại nhà lao Thừa Phủ (Huế) vào mùa hè năm 1939, sau khi bị thực dân Pháp bắt giam vì "tội" yêu nước và làm cách mạng. Bài thơ thể hiện tâm trạng xốn xang, bức bối của người thanh niên cộng sản đang bị cầm tù, khi nghe thấy tiếng chim tu hú báo hiệu mùa hè đến đã muốn phá tung xiềng xích để trở về với đồng bào, đồng chí yêu thương. Tiếng chim tu hú gọi bầy gợi cho nhà thơ nghĩ đến khung trời lồng lộng ở bên ngoài và càng cảm thấy ngột ngạt trong xà lim chật chội, càng khao khát cháy bỏng cuộc sống tự do. Tiếng chim là yếu tố gợi mở để mạch cảm xúc trào dâng mãnh liệt: Khi con tu hú gọi bầy Lúa chiêm đương chín, trái cây ngọt dần Đó là tín hiệu của mùa hè rực rỡ, của sự sống tưng bừng sinh sôi nảy nở. Tiếng chim vô tình tác động đến tâm hồn người tù trẻ tuổi. Nằm trong xà lim chật hẹp, tối tăm, cách biệt với thế giới bên ngoài, nhà thơ lắng nghe tiếng chim rộn rã, lắng nghe mọi âm thanh cuộc đời bằng tâm hồn và trái tim nhạy cảm của người nghệ sĩ. Một tiếng chim thôi cũng gợi trong tâm tưởng nhà thơ cả một trời thương nhớ về những mùa hè nồng nàn của quê hương. Mùa hè là mùa của Lúa chiêm đương chín, trái cây ngọt dần dưới cái nắng vàng óng như mật của miền Trung. Những âm thanh rạo rực và hình ảnh tươi đẹp, tràn đầy sức sống của mùa hè nối nhau hiện lên trong kí ức nhà thơ: Vườn râm dậy tiếng ve ngân Bắp rây vàng hạt đầy sân nắng đào Trời xanh càng rộng càng cao Đôi con diều sáo lộn nhào từng không... Ôi tiếng ve! Tiếng ve ngân dài suốt thời thơ ấu, suốt tuổi học trò, làm sao quên được ! Tiếng ve gợi nhớ về những khu vườn râm mát bóng cây, những sân phơi bắp (ngô đầy ắp nắng đào. Màu vàng của lúa, bắp; màu hồng của nắng; màu xanh của trời tạo nên những mảng màu sắc lung linh, rực rỡ của bức tranh quê. Thoang thoảng đâu đây hương lúa, hương thơm trái chín đầu mùa. Xa xa, tiếng chim tu hú lảnh lót, tiếng ve ngân ra rả trong vòm lá. Trên bầu trời cao rộng, những cánh diều chao lượn, tiếng sáo vi vu trong gió nam mát rượi chiều hè... Phải gắn bó, yêu mến quê hương sâu đậm đến độ nào thì nhà thơ mới hình dung ra một bức tranh mùa hè xứ Huế sống động đến như vậy. Đó là những mùa hè mà chàng thanh niên mười tám còn được sống tự do giữa gia đình, bè bạn, đồng bào, đồng chí thân thương. Sáu câu-thơ lục bát uyển chuyển mở ra cả một thế giới rộn ràng, tràn trề nhựa sống. Nhiều âm thanh, hình ảnh tiêu biểu của mùa hè được đưa vào bài thơ: tiếng ve ngân trong vườn cây, lúa chiêm chín vàng trên cánh đồng, bầu trời cao rộng với cánh diều chao lượn, trái cây chín mọng ngọt lành... Tiếng chim tu hú khởi đầu và bắt nhịp cho mùa hè rộn rã âm thanh, rực rỡ màu sắc, ngạt ngào hương vị... trong cảm nhận của người tù. Đoạn thơ thể hiện khả năng cảm nhận tinh tế và khát vọng tự do cháy bỏng của người chiến sĩ cách mạng trẻ trung, yêu đời nhưng đang bị quân thù tước mất tự do. Đang hồi tưởng về quá khứ, nhà thơ trở lại với thực tại phũ phàng của chốn lao tù: Ta nghe hè dậy bên lòng Mà chân muốn đạp tan phòng, hè ôi! Thi hứng được khơi nguồn bắt đầu từ tiếng chim tu hú. Tiếng chim nhắc nhớ đến mùa hè và tạo nên sự xao động lớn trong tâm hồn thi sĩ. Cảm xúc cứ dâng lên từng đợt, từng đợt như sóng dậy, thôi thúc con người biỉt tung xiềng xích, phá tan tù ngục để trở về với cuộc sống phóng khoáng, tự do. Dường như sức nóng của mùa hè đang rừng rực cháy trong huyết quản người thanh niên yêu nước Tố Hữu. Sức sống mãnh liệt của mùa hè chính là sức sống mãnh liệt của tuổi trẻ khát khao lí tưởng cách mạng, khát khao hoạt động, cống hiến cho dân, cho nước. Tiếng chim tu hú là tiếng gọi thôi thúc của cuộc sống đối với người chiến sĩ cách mạng đang bị giam cầm. Bên ngoài là tự do, phóng khoáng, còn nơi đây là tù túng, bức bối: Ngột làm sao, chết uất thôi Con chim tu hú ngoài trời cứ kêu! Tâm trạng đau khổ, uất ức bật thốt thành lời thơ thống thiết. Cách ngắt nhịp bất thường kết hợp với các từ ngữ có khả năng đặc tả và những từ cảm thán như truyền đến độc giả cái cảm giác uất hận cao độ và niềm khao khát cháy bỏng muốn thoát ra khỏi cảnh tù ngục, trở về với cuộc sống tự do bên ngoài của người thanh niên yêu nước đang bị giam cầm trong lao tù đế quốc. Câu thơ chứa đựng nỗi khắc khoải, vật vã, day dứt khôn nguôi cả về thể xác lẫn tâm hồn của nhà thơ trẻ. Trong hoàn cảnh ấy, thời khắc ấy, người cộng sản phải tự đấu tranh với bản thân để làm chủ mình, vượt lên những đắng cay nghiệt ngã của lao tù đế quốc, nuôi dưỡng ý chí, giữ vững khí tiết và tinh thần đấu tranh cách mạng. Đó là một hình thức đấu tranh tích cực mà Bác Hồ rất tâm đắc khi Người rơi vào chốn lao tú của Tưởng Giới Thạch: Thân thể ở trong lao, Tinh thần ở ngoài lao. Các chiến sĩ cách mạng tiền bối trung kiên cũng đã khẳng định: Giam người khóa cả chân tay lại, Chẳng thể ngăn ta nghĩ tự do. (Xuân Thủy). Tiếng chim tu hú cứ kêu hoài như nhắc nhở tới nghịch cảnh của nhà thơ, giục giã nhà thơ phá tung tù ngục để giành lại tự do. Bài thơ Khi con tu hú làm theo thể thơ lục bát rất phù hợp với việc diễn tả tâm tư nhân vật. Sáu câu đầu nhịp điệu thong thả, từ ngữ trong sáng, hình ảnh tươi vui, tạo nên bức tranh mùa hè tuyệt đẹp. Bốn câu thơ sau nhịp điệu thay đổi hẳn. Câu thơ căng thẳng như chứa đựng một sức mạnh bị dồn nén chỉ chực bật tung ra. Đó là tâm trạng của người chiến sĩ cách mạng trẻ tuổi hoạt động chưa được bao lâu đã lâm vào cảnh tù ngục, lúc nào cũng khao khát tự do, muốn thoát khỏi bốn bức tường xà-lim lạnh lẽo để trở về với đồng bào, đồng chí thân yêu. Đặc sắc nghệ thuật của bài thơ được tạo nên từ rung động tột đỉnh của cảm xúc kết hợp với bút pháp miêu tả tâm lí nhân vật vừa chân thực vừa tinh tế. Tiếng chim tu hú chỉ trong một khoảnh khắc ngắn ngủi đã làm dậy lên tất cả cảnh và tình mùa hè trong tâm tưởng nhà thơ. Người tù thấu hiểu được cảnh ngộ trớ trêu của mình trong chốn lao tù ngột ngạt, giữa lúc cuộc sống bên ngoài đang nảy nở, sinh sôi. Phải bứt tung xiềng xích, phá tan những nhà ngục hữu hình và vô hình đang giam hãm cả dân tộc trong vòng nô lệ. Bài thơ Khi con tu hú là tiếng lòng của người chiến sĩ cộng sản trẻ tuổi tuy đang phải sống trong cảnh lao tù nhưng vẫn tràn đầy sức sống, sức trẻ, chan chứa tình yêu con người, tình yêu cuộc sống.

Ý nghĩa nhan đề đoạn trích Hạnh phúc của một tang (Vũ Trọng Phụng)

a. Nhan đề tạo sự đối lập gây tiếng cười thâm thúy:"Tang gia" là đau đớn,u buồn,ảm đạm. "Hạnh phúc" là sự sung sướng,được thỏa mãnnguyện vọng.Hai trạng thái đó đối lập nhau trong một nhan đề đã tạo nên nghịchlý gây sự tò mò,chú ý ở người đọc. b. Nhan đề góp phần bộc lộ nội dung đoạn trích: cái chết của cụ cố Tổ đã đem lại cho cả gia đình này một niềm hạnh phúc hoan hỉ.Cái chết của cụ cố tổ đem đến hạnh phúc,sung sướng cho tất cả con cháu,người thân và bạn bè,niềm hạnh phúc đó to lớn đến mức nó cự tự phát bung ra,tràn trề,không kìm nén lại được.Bởi cụ cố tổ làm di chúc là sau khi cụ chết mới được chia gia tài. Cái chết của cụ khiến cho cái chúc thư kia thực sự "bắt đầu đi vào giai đoạn thực hành chứ không còn là lý thuyết suông nữa",do đó ai cũng hạnh phúc.Ông Phán mọc sừng sẽ có them vài nghìn đồng nhờ giá trị của đôi sừng hươu trên đầu.Cụ cố Hồng hoan hỉ nghĩ đến lúc cụ mặc bộ đồ xô gai.Văn Minh thì thầm kín sung sướng vì chúc thư được thực hiện thì ông được chia một tài sản lớn.Bà Văn Minh và ông Typn thì sung sướng vì những bộ độ của tiệm may Âu Hóa được dịp lăng xê...nghĩa là mỗi thành viên trong gia đình này đều có những "hạnh phúc" cho riêng họ. c. Nhan đề góp phần tố cáo mạnh mẽ,lật tẩy bộ mặt thật của một xã hội tư sản lố lăng,kệch cỡm,học đòi,đang làm bang hoại giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc.


Ensembles d'études connexes

Psychology Ch 16, psychology Ch 15, Psychology ch 14

View Set